Phần III - Sản xuất nông nghiệp
Cây lúa
Sản xuất lúa gạo là ngành sản
xuất truyền thống và lâu đời của người
Việt nên luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và
kinh tế Việt Nam, chiếm gần 37% GDP nông nghiệp
và 26% tổng xuất khẩu nông sản trong giai đoạn
2000 - 2004. Cây lúa được gieo trồng ở hầu hết
các vùng trong cả nước. Tại miền Bắc, do
điều kiện khí hậu cận nhiệt đới
nên lúa được trồng vào hai vụ chính là Đông
Xuân và vụ Mùa; còn các tỉnh miền Nam, với điều
kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, lúa được
trồng thêm một vụ nữa là vụ Hè Thu. Hai vùng sản
xuất lúa chính của Việt Nam là Đồng bằng
sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm
khoảng 2/3 tổng diện tích và 70% sản lượng
lúa gạo của cả nước.
Việt Nam đã đạt được
những thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo
và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
thứ hai trên thế giới với lượng xuất
khẩu hàng năm 4 - 5 triệu tấn. Gạo xuất khẩu
chủ yếu từ vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Các khu vực khác do vị trí địa lý và điều
kiện khí hậu kém thuận lợi hơn nên sản xuất
lúa gạo chủ yếu phục vụ tiêu dùng trong nước.
Năm 2004, năng suất lúa trung bình cả
nước đạt 4,9 tấn/ha, diện tích gieo trồng
lúa đạt 7,5 triệu ha (trong đó diện tích lúa
Đông Xuân là 3 triệu ha, lúa Hè Thu 2,4 triệu ha, lúa Mùa 2,1
triệu ha), tổng sản lượng lúa đạt trên
36 triệu tấn (vụ Đông Xuân 17,1 triệu tấn,
Hè Thu 10,4 triệu tấn, Mùa 8,6 triệu tấn). Trong suốt
thập niên 1990, diện tích gieo trồng lúa liên tục
tăng ở mức 2,7%/năm nhưng có sự biến
đổi mạnh trong cơ cấu mùa vụ theo hướng
tăng mạnh diện tích Hè Thu và Đông Xuân, giảm mạnh
diện tích lúa vụ Mùa. Những năm gần đây do
tác động của thị trường và chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nên diện tích gieo trồng lúa
tuy có xu hướng giảm bình quân 0,7%/năm (chủ yếu
vẫn là giảm diện tích lúa Mùa). Tuy nhiên, do tốc
độ tăng năng suất lúa vẫn duy trì ở mức
khá cao khoảng 3,2%/năm nên sản lượng lúa vẫn
tăng ở mức 2,7%/năm.
Cây ngô
Ngô là cây lương thực cho hạt
được trồng phổ biến ở Việt Nam,
đặc biệt là ở các vùng núi, với diện tích
khoảng 1 triệu ha, sản lượng năm 2004 đạt
3,4 triệu tấn, là một trong những nguồn quan trọng
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Nghề trồng ngô ở Việt Nam bắt
đầu phát triển từ sau năm 1970. Đến nay
Việt Nam trở thành một trong ba nước sản xuất
ngô hàng đầu ở châu Á. Nhìn chung, diện tích gieo trồng,
sản lượng và năng suất của ngô tăng mạnh
và đều qua các năm, đạt mức bình quân lần
lượt là 6,1%/năm, 12,4%/năm và 5,9%/năm trong suốt
giai đoạn 1990 – 2004. Năm 1990 năng suất ngô bình
quân mới chỉ đạt 1,6 tấn/ha thì đến
năm 2004 con số này đã tăng hơn hai lần (3,5 tấn
/ha). Giai đoạn 2000–2004, tốc độ tăng bình
quân về diện tích trồng ngô là 7,9%/năm, sản
lượng tăng bình quân 14,4%/năm, năng suất
tăng đạt mức trung bình gần 6%/năm.
Cây ngô thích hợp với điều kiện
thời tiết vùng đồi núi trung du và vùng đất
đỏ bazan, do đó ngô được trồng tập
trung tại các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và các
tỉnh Thanh Hóa, Nghê An (ở vùng Bắc Trung Bộ), Đồng
Nai, Bình Thuận (ở vùng Đông Nam Bộ). Tổng diện
tích trồng ngô ở các vùng này chiếm gần 80% diện
tích trồng ngô cả nước và sản lượng chiếm
tới 76%. Một số tỉnh đồng bằng có diện
tích và năng suất ngô đáng kể là Thái Bình, Bà Rịa
- Vũng Tàu và An Giang.
Cây có củ
Cây lương thực có củ ở Việt
Nam chủ yếu gồm khoai lang và sắn, dùng làm nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp chế biến thức ăn
chăn nuôi, đồng thời là nguồn lương thực
phục vụ sinh hoạt hàng ngày ở khu vực nông thôn,
miền núi. Năm 2004, tổng diện tích của hai cây này
là 590,4 nghìn ha (chiếm 95% tổng diện tích cây có củ);
diện tích khoai lang và sắn tương ứng là 201,8 và
388,6 nghìn ha, sản lượng tương ứng đạt
1,5 và 5,8 triệu tấn.
Giai đoạn 1995 - 2004 có sự chuyển
dịch đáng kể về cơ cấu diện tích trồng
cây có củ. Tổng diện tích tăng trung bình 0.1%/năm,
trong đó diện tích khoai lang giảm 4,5%/năm, diện
tích sắn tăng 3,8%/năm (giai đoạn 2000 - 2004, các
con số này tương ứng là 3,84%/năm, 5,62%/năm và
13,1%/năm). Do diện tích khoai lang giảm liên tục nên sản
lượng giảm 1,2%/năm (giai đoạn 2000 - 2004 giảm
1,6%/năm); tuy nhiên năng suất lại tăng đạt
mức 3,4%/năm (giai đoạn 2000 - 2004 là 4,3%/năm).
Đối với sắn, nếu như ở giai đoạn
1995 - 1999, diện tích, năng suất, sản lượng
giảm mạnh thì ở giai đoạn 2000 - 2004, diện
tích, năng suất, sản lượng bình quân tăng
nhanh lần lượt là 13,1%/năm, 15,7%/năm và
30,8%/năm.
Cây có củ chủ yếu
được trồng ở vùng Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và một số tỉnh miền núi
phía Bắc như Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ,
Sơn La, Hòa Bình cùng với một số tỉnh ở vùng
Duyên Hải Nam Trung Bộ là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định. Diện tích trồng và sản lượng cây
có củ ở các vùng này chiếm hơn 80% so với cả
nước. Vùng Đông Nam Bộ có diện tích trồng và
năng suất cao nhất (19,4 tấn/ha). Vùng Bắc Trung Bộ
mặc dù diện tích trồng đứng thứ hai
nhưng năng suất thấp nhất (8,5 tấn/ha). Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long tuy chiếm diện tích
không đáng kể nhưng năng suất cao so với trung
bình, đạt 14,6 tấn/ha.
Cây Lạc
Nhờ đưa vào
gieo trồng các giống lạc mới năng suất cao,
trong giai đoạn 2000 - 2004, năng suất lạc
tăng trung bình 5,2%/năm. Dù diện tích gieo trồng lạc
tăng không nhiều (1,9%/năm), nhưng sản lượng
lạc hàng năm tăng ở mức khá cao, trung bình
7,2%/năm trong giai đoạn 2000 - 2004.
Thích hợp với
đất nhẹ tơi xốp và không cần nhiều dinh
dưỡng, lạc được trồng phổ biến
ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ,
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, trong đó tập trung
nhiều nhất ở vùng Bắc Trung Bộ (chiếm 31%
diện tích lạc cả nước). Bắc Trung Bộ
cũng là vùng đóng góp lớn nhất cho tổng sản
lượng lạc của cả nước (28,6%). Vùng có
năng suất trồng lạc cao nhất lại là Đồng
bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long, trong đó cao nhất là vùng Đồng bằng
sông Hồng với năng suất 3 tấn/ha (so với mức
trung bình 1,9 tấn/ha của cả nước). Tuy
được trồng khá phổ biến ở khu vực
Tây Nguyên với tổng diện tích lên tới hơn 22 nghìn
ha (chiếm 9,7% tổng diện tích lạc cả nước),
nhưng đây lại là vùng có năng suất lạc thấp
nhất cả nước (0,7 tấn/ha).
Cây Đậu tương
Đậu tương
là cây trồng truyền thống có mặt từ lâu đời
ở Việt Nam. Ngoài việc lấy hạt, cây đậu
tương còn có tác dụng cố định đạm
làm tăng dinh dưỡng cho đất, nên thường
được nông dân trồng xen với các cây trồng
khác với mục đích cải tạo đất. Diện
tích gieo trồng đậu tương tăng rất nhanh,
bình quân ở mức 10,3%/năm trong giai đoạn 2000 -
2004. Cùng với việc tăng năng suất trung bình
2,7%/năm, sản lượng đậu tương đạt
mức tăng bình quân 13,3%/năm trong giai đoạn 2000 -
2004.
Cây đậu
tương được trồng khá phổ biến ở
miền Bắc, đặc biệt là ở vùng Đồng
bằng sông Hồng (trồng luân canh với lúa) và vùng
Đông Bắc. Ở miền Nam, cây đậu tương
được trồng chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và
một số ít ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Tuy có diện tích trồng đậu tương khá lớn
(26.235 ha), chiếm 14,4% tổng diện tích đậu
tương của cả nước, nhưng Tây Nguyên lại
là vùng có năng suất đậu tương ở mức
thấp nhất cả nước (1 tấn/ha). Cây đậu
tương cho năng suất rất cao tại vùng Đồng
bằng sông Hồng (8,7 tấn/ha), do vậy chỉ với
diện tích trồng đậu tương chiếm 29,2%
nhưng vùng Đồng bằng sông Hồng đã đóng
góp 75,4% vào tổng sản lượng đậu
tương của cả nước.
Cây Mía
Từ năm 1994, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Chương
trình Tổng quan về phát triển ngành mía đường
để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Nhờ đó, diện tích trồng mía trong giai đoạn
1995 - 1999 tăng lên nhanh với tỷ lệ trung bình
11,2%/năm so với 6,3%/năm của giai đoạn 1990 -
1994. Sau khi hoàn thành chương trình 1 triệu tấn
đường vào năm 2000, việc mở rộng diện
tích trồng mía đường được ngưng lại,
thay vào đó là việc đẩy mạnh thâm canh tăng
năng suất. Do đó trong giai đoạn 2000 - 2004,
năng suất mía tăng trung bình 2,4%, cao hơn so với mức
tăng 2% của giai đoạn 1995 - 1999. Tính toàn bộ
giai đoạn 1990 - 2004, sản lượng mía tăng
trung bình 7,9%/năm.
Cây mía được trồng
chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam
Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Đây cũng là những vùng đóng góp nhiều nhất
cho tổng sản lượng mía của cả nước.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, vùng
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng
mía lớn nhất cả nước, chiếm 23% tổng
diện tích mía của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu
Long cũng là vùng có năng suất mía cao nhất cả
nước (trung bình 68,6 tấn/ha) nên mức đóng góp cho
tổng sản lượng mía cũng lớn nhất
(29,5%). Vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc
có năng suất mía ở mức thấp hơn nhiều
so với mức bình quân cả nước do trồng mía
quy mô nhỏ và vẫn sử dụng các giống mía cũ,
năng suất thấp.
Cây thuốc lá
Cây thuốc lá cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thay thế
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Diện tích cây thuốc
lá tăng khá trong giai đoạn 1995 - 1999 (4%/năm), kéo theo
sự tăng nhanh về sản lượng (6,5%/năm).
Bước sang giai đoạn 2000 - 2004, diện tích trồng
thuốc lá có xu hướng giảm mạnh (mức
tăng trưởng trung bình là -9,6%/năm). Tuy nhiên, nhờ
năng suất tăng nên tổng sản lượng thuốc
lá trong giai đoạn này cũng không giảm nhiều
(-3,4%/năm). Đến năm 2004, Việt Nam đã có tới
39.925 ha trồng thuốc lá và tổng sản lượng
thuốc lá nguyên liệu là 25.230 tấn. Hiện nay mỗi
năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng
100 triệu USD nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến
thuốc lá, cho nên việc mở rộng diện tích trồng
cây thuốc lá, đặc biệt dưới hình thức hợp
đồng cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy là cần
thiết.
Cây thuốc lá được
trồng nhiều nhất ở vùng Đông Bắc, chiếm
tới chiếm tới 69,4% tổng diện tích thuốc lá
của cả nước. Tuy nhiên, do năng suất không
cao nên vùng Đông Bắc chỉ đóng góp 23,8% vào tổng sản
lượng thuốc lá của cả nước. Thuốc
lá cũng được trồng khá phổ biến ở
vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Tuy diện tích trồng thuốc
lá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long không nhiều,
nhưng đây lại là vùng trồng thuốc lá cho năng
suất cao nhất cả nước. Vùng Tây Bắc hầu
như không trồng thuốc lá. Tại các vùng Đồng bằng
sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ,
diện tích trồng thuốc lá cũng không nhiều.
Cây cà phê
Trong những năm qua, diện tích cà phê
của Việt Nam tăng nhanh từ vài chục ngàn ha lên tới
500 ngàn ha. Sản lượng cà phê tăng mạnh, đạt
tốc độ tăng trưởng khoảng 26%/năm
trong giai đoạn 1995 - 1999. Trong 5 năm gần đây, tốc
độ tăng trưởng diện tích cà phê giảm mạnh
do biến động trên thị trường thế giới
và chính sách của chính phủ khuyến khích giảm diện
tích trồng cà phê ở những vùng không thuận lợi.
Giai đoạn 2000 - 2004, tốc độ tăng trưởng
diện tích cà phê và sản lượng cà phê chỉ đạt
lần lượt -3,1%/năm và 1%/năm. Cà phê chiếm khoảng
8% giá trị sản lượng nông nghiệp và khoảng
25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp.
Cà phê của Việt Nam chủ yếu
được dùng để xuất khẩu cho các tập
đoàn rang xay và thương mại lớn trên thế giới,
với lượng xuất khẩu chiếm tới hơn
90% tổng sản lượng và là nước xuất khẩu
cà phê vối lớn nhất thế giới. Nghề trồng
cà phê ở Việt Nam tạo nguồn thu nhập lớn
cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền
núi, tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân.
Cà phê chủ yếu
được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc
và Tây Nguyên có độ cao từ khoảng 800m trở lên. Diện
tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại
các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai,
Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện
tích cà phê của vùng này chiếm tới 72% tổng diện
tích cả nước và sản lượng cũng chiếm
khoảng 92% tổng sản lượng cả nước.
Cà phê chè trồng với diện tích và sản lượng
rất khiêm tốn chủ yếu ở vùng núi phía Bắc,
tập trung nhiều ở tỉnh Sơn La và Điện
Biên.
Cây cao su
Diện tích trồng cao su tăng trưởng
mạnh nhất trong giai đoạn 1995 - 1999 với tốc
độ hơn 9%/năm và tăng trưởng giảm dần
trong giai đoạn 2000 - 2004 khoảng 2,5%/năm. Tốc
độ tăng trưởng về sản lượng
cao su mủ khô cũng giảm dần từ 19%/năm trong
giai đoạn 1995 - 1999 xuống còn gần 10%/năm giai
đoạn 2000-2004. Năng suất cao su tăng trong giai
đoạn này, từ 12.2 tạ/ha năm 2000 lên 13.6 tạ/ha
năm 2004.
Đất đai và khí hậu ở nhiều
vùng sinh thái của nước ta, đặc biệt là vùng
Đông Nam Bộ và Tây Nguyên rất phù hợp với việc
sinh trưởng và phát triển cây cao su. Năm 2004, diện
tích cao su của vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chiếm tới
94% tổng diện tích cả nước (trong đó, riêng
vùng Đông Nam Bộ chiếm gần 70%). Nhờ vậy, sản
lượng cao su của hai vùng này cũng chiếm tới
98% tổng sản lượng của cả nước.
Ngoài ra, cao su cũng được trồng ở một số
tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị
nhưng sản lượng không đáng kể.
Cây
hồ tiêu
Cây tiêu được
trồng ở các vùng đất bazan (từ Quảng Trị
trở vào đến các tỉnh vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và một số nơi khác của Nam Bộ như tỉnh
Kiên Giang và An Giang). Nhìn chung tiêu phát triển tốt ở
độ cao đến 900m so với mặt biển, trên
đất đỏ bazan, đất phù sa, đất xám.
Những năm giữa thập niên 1990 trở lại
đây cây tiêu phát triển mạnh ở Việt Nam, sản
lượng tăng nhanh và chiếm vị trí thứ 3 thế giới (chỉ
sau Ấn Độ và Indonesia). Tiêu Việt Nam có ưu thế
về chất lượng. Năm 2004, kim ngạch xuất
khẩu hồ tiêu đạt trên 150 triệu đô la Mỹ,
chiếm 2,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông
lâm thuỷ sản cả nước. Tổng diện tích
trồng tiêu tại Việt Nam năm 2004 khoảng 47.667ha,
sản lượng đạt 66.423 tấn. So với
năm 1990 diện tích tiêu năm 2004 đã tăng gấp gần
5,5 lần và sản lượng tăng 7,9 lần.
Diện tích trồng tiêu tập
trung ở vùng Đông Nam bộ (27.479ha, chiếm 57,6% diện
tích cả nước), Tây Nguyên (15.809ha, chiếm 33,2 %) và Bắc
Trung Bộ (3.356ha, chiếm
7%). Năng suất tiêu không chênh lệch nhiều giữa
các vùng. Tương ứng với tỷ lệ diện tích
trên, sản lượng tiêu năm 2004 của vùng Đông
Nam Bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ là 39.410, 22.906 và 2.314
tấn tương đương với 59,3%, 34,5% và 3.5% tổng
sản lượng tiêu cả nước.
Cây điều
Cây điều không kén
đất, dễ trồng và chịu được thời
tiết khó khăn khắc nghiệt, vì thế rất thích hợp với đất
đai và khí hậu tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Đây cũng là cây trồng
mang lại lợi ích kinh tế cao. Cây điều luôn đứng
trong nhóm những mặt hàng nông sản có giá trị xuất
khẩu lớn của Việt Nam. Chỉ tính riêng trong
năm 2004, kim ngạch xuất khẩu điều đạt
430 triệu đô la Mỹ, chiếm 8% tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản. Do sản
phẩm hạt điều chủ yếu phục vụ xuất
khẩu nên từ những năm 1990, khi giá điều trên
thị trường thế giới tăng cao thì diện
tích trồng điều cũng phát triển mạnh. Đặc
biệt trong giai đoạn 2000 - 2004 khi giá xuất khẩu
cao, giá thu mua trong nước vượt mức 15.000 đồng/kg
thì diện tích điều tăng bình quân 10,9%/năm, đẩy
sản lượng tăng lên mức kỷ lục là 31,9
%/năm.
Năm 2004, tổng diện
tích điều của Việt Nam là 250.960ha, tập trung chủ
yếu ở vùng Đông Nam Bộ (179.970ha, chiếm 71,7%). Sản
lượng điều của vùng này cũng đứng
đầu trên cả nước với tổng sản
lượng năm 2004 là 142.361 tấn, chiếm 78,4% tổng
sản lượng điều Việt Nam (181.568 tấn).
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tuy diện tích trồng không
nhiều (20.499ha, tương ứng 8,2%) nhưng do hầu
hết diện tích trồng đang ở giai đoạn
cho sản phẩm nên cũng
đứng thứ hai của cả nước về sản
lượng điều (21.826 tấn, chiếm 12%). Trong khi
đó, vùng Tây Nguyên với diện tích trồng điều
rộng lớn, chỉ đứng sau Đông Nam Bộ với
tổng diện tích 49.69âh
(tương đương 19,8%) lại chỉ đạt
mức sản lượng là 16.956 tấn, chiếm 9,3% tổng
sản lượng. Do bị cạnh tranh với các cây trồng
khác nên vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ trồng
một diện tích nhỏ là 779ha, khoảng 0,3% tổng diện
tích điều trên cả nước. Điều không
được trồng tại miền Bắc và Bắc
Trung Bộ.
Cây chè
Từ năm 1990 đến
nay, diện tích chè Việt Nam tăng nhanh (trung bình
5,1%/năm). Đặc biệt, trong giai đoan 1995 - 1999 giá
chè lên cao, tốc độ tăng trưởng diện
tích bình quân lên tới 8,3%/năm. Năm 2004, tổng diện
tích trồng chè ở Việt nam là 87.494ha. Song song với mở
rộng diện tích, sản lượng chè cũng tăng,
thậm chí còn nhanh hơn tốc độ tăng diện
tích, đạt mức bình quân là 9,5%/năm trong giai đoạn
1990 - 2004. Do chất lượng chè Việt Nam thấp nên
kim ngạch xuất khẩu chưa cao. Năm 2004, kim ngạch
xuất khẩu chè mới đạt 91,5 triệu đô la
Mỹ, chiếm khoảng 1,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu nông lâm thuỷ sản.
Chè tập trung chủ yếu
ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Riêng các tỉnh
trung du miền núi phía Bắc thuộc vùng Đông Bắc
đã có 52.452ha, chiếm 59,9% tổng diện tích chè cả
nước; tiếp theo là vùng Tây Nguyên với diện tích
26.952ha, chiếm 30,8%. Trong khi đó, tại vùng Tây Bắc,
do điều kiện địa hình và thời tiết
không thuận lợi, diện tích chè chỉ là 8.654ha
tương đương với 9,2% tổng diện tích
chè trên cả nước.
Vùng Tây Nguyên (nơi có
độ cao trung bình) có điều kiện sinh thái phát triển
các giống chè tốt, năng suất cao. Tuy diện tích
chè vùng này chỉ chiếm 30,8% diện tích chè cả nước
nhưng trong năm 2004 sản lượng đạt tới
155.668 tấn, chiếm 39,8% tổng sản lượng cả
nước. Chè vùng Đông Bắc (vùng thấp) có khả
năng phát triển khá tốt, thời kỳ sinh trưởng
dài trong năm nên cũng đạt được mức
sản lượng là 201.834 tấn, chiếm 51,5%. Vùng Tây Bắc
có địa hình phức tạp, phân cắt mạnh, cơ
sở hạ tầng kém, tập quán canh tác lạc hậu
nên sản lượng chè sản xuất tại khu vực
này chỉ tương đương 8,7% sản lượng
cả nước, đạt 34.097 tấn. Tuy nhiên, đây
lại là vùng có điều kiện sinh thái đặc biệt
thích hợp cho phát triển các giống chè Shan cho sản phẩm
chất lượng cao.
Cây ăn
quả
Việt Nam có điều kiện tự
nhiên và khí hậu phù hợp để phát triển đa dạng
các loại cây ăn quả, từ quả ôn đới
như mận, đào, đến quả cận nhiệt
đới như vải thiều, nhãn, cam hay quả nhiệt
đới như măng cụt, soài, sầu riêng, dứa,
chuối... Trung bình trong giai đoạn 1995 - 1999, diện
tích trồng cây ăn quả tăng 10,3%/năm, cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng bình quân
3,3%/năm trong giai đoạn 1990 - 1994. Năm 2004, tổng
diện tích cây ăn quả Việt Nam vào khoảng
747.803ha, trong đó tập trung chủ yếu tại vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và
Đông Bắc với diện tích tương ứng là
260.253ha, 132.937ha và 136.262ha. Một số cây ăn quả
chính có năng suất và sản lượng tăng nhanh
như xoài, dứa, cây có múi với mức tăng bình quân sản
lượng trong giai đoạn 2000 - 2004 lần lượt
là 15,4%/năm, 9,7%/năm và 6%/năm. Trong khi đó, diện
tích trồng nhãn giảm tới 7,7%/năm và sản lượng
giảm 1,3%/năm trong cùng giai đoạn.
Trước đây, hầu hết các loại
cây ăn quả được trồng hoặc xung quanh
nhà với một vài cây hoặc tại các vườn cây
ăn quả tập trung với qui mô nhỏ từ 0,5ha
đến 2ha. Trong những năm gần đây cùng với
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại của
Nhà nước đã hình thành và phát triển nhiều vườn
cây ăn quả có diện tích rất lớn đến vài
chục ha, tập trung ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc,
Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, và Đông Nam Bộ.
Trâu, bò
Trong giai đoạn 2000 - 2004, tăng
trưởng bình quân của tổng đàn bò cả nước
đạt 4,4%/năm. Số đầu con đàn bò năm
2004 là 5,004,000 con. Sản lượng thịt bò chiếm khoảng
5% lượng thịt hơi của các loại gia súc gia cầm.
Chăn nuôi bò khá phát triển ở miền Trung. Hai vùng có số
lượng bò nhiều nhất nước là vùng Bắc
Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, chiếm 22% và 23% tổng
đàn bò cả nước. Chăn nuôi bò ở vùng Tây Nguyên
và Đồng bằng sông Hồng cũng phát triển mạnh
mẽ. Những vùng có sản lượng thịt bò cao của
cả nước là Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ,
Đông Bắc và Bắc Trung Bộ.
Tốc độ tăng trưởng của
tổng đàn trâu trên cả nước những năm gần
đây giảm dần do quá trình cơ giới hóa nông nghiệp
nông thôn. Số đầu trâu năm 2000 là 2,900,000 con,
năm 2004 còn lại 2,870,000
con trên cả nước. Sản lượng thịt trâu của
Việt Nam cũng giảm bình quân 2,7%/năm từ 1996 -
2000. Đàn trâu ở vùng Đồng bằng sông Hồng,
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long giảm
xuống nhanh chóng trong thời gian gần đây. Giai đoạn
1990 - 2000, số trâu ở Đồng bằng sông Cửu
Long giảm bình quân 14%/năm. Tuy nhiên ở miền núi con
trâu vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
sức kéo. Số lượng trâu ở vùng Tây Bắc
tăng 4%/năm, ở Tây Nguyên tăng 5,6%/năm. Vùng Tây
Nguyên và Tây Bắc, sản lượng thịt trâu tăng
bình quân 13,4%/năm và 6%/năm.
Lợn
Chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng
nhất cho sự phát triển của ngành chăn nuôi Việt
Nam. Thu nhập từ chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu nhập của rất nhiều hộ
gia đình nông thôn. Giai đoạn 2000 - 2004, tỷ lệ
tăng trưởng của số lượng lợn
đạt là 6,7%/năm. Năm 2004, tổng đàn lợn
trên cả nước đạt 24.879.000 con, cao gấp 2 lần
so với năm 1990.
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam phát
triển chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng
và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 10 năm qua, tốc
độ tăng trưởng đàn lợn bình quân vùng
Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu
Long đạt tương ứng là 7,5%/năm và 5,7%/năm.
Năm 2000, số đầu lợn của vùng Đồng
bằng sông Hồng chiếm 27% tổng đàn cả nước
và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 15%. Những
năm gần đây chăn nuôi lợn quy mô lớn, theo kiểu
công nghiệp và thương mại hóa cao phát triển mạnh
ở vùng Đông Bắc và Đông Nam Bộ. Chăn nuôi lợn
ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ
phát triển chậm và có xu hướng giảm; tốc
độ tăng bình quân đầu con trong 5 năm gần
đây chỉ đạt 2,3%/năm và 2,8%/năm.
Từ năm 1990 đến năm 2000, sản
lượng thịt lợn của Việt Nam tăng gần
2 lần, đạt trên 1,4 triệu tấn năm 2000. Từ
năm 2000 đến nay, sản lượng thịt lợn
chiếm trung bình 76% tổng sản lượng thịt
hơi các loại. Vùng sản xuất nhiều thịt lợn
nhất là Đồng bằng sông Hồng. Năm 2000, sản
lựợng thịt lợn hơi của vùng Đồng
bằng sông Hồng chiếm 26% tổng sản lượng
thịt lợn cả nước, Đồng bằng sông
Cửu Long chiếm 21%, Đông Nam Bộ chiếm 12,4%.
Gia cầm
Chăn nuôi gia cầm
phát triển mạnh mẽ ở hộ gia đình. Mô hình chăn nuôi gà thả vườn
trong hộ gia đình được áp dụng khá rộng
rãi và đạt hiệu quả cao trên cả nước, kể
cả vùng núi và cao nguyên. Tốc độ tăng trưởng
trung bình giai đoạn 2000 - 2004 là 2,7%/năm. Dịch cúm
gia cầm bùng phát tại Việt Nam từ cuối năm
2003 đã gây thiệt hại nặng nề đến ngành
chăn nuôi gia cầm. Có khoảng 44.000.000 gia cầm đã
bị tiêu huỷ trong giai đoạn cuối năm 2003 và
đầu năm 2004, ước tính tổng thiệt hại
khoảng 1,3 nghìn tỷ đồng. Năm 2004 tổng
đàn gia cầm của cả nước là 218.200.000 con.
Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh
nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long. Riêng năm 2000 số gia cầm của
vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long chiếm 50% tổng đàn gia cầm
toàn quốc. Ngoài ra, vùng Đông Bắc và Đông Nam Bộ
cũng phát triển chăn nuôi gia cầm trong những
năm qua.
Trong chăn nuôi gia cầm, gà là vật
nuôi chiếm tỷ trong chính cả về đầu con và sản
lượng thịt (76%). Phần còn lại chủ yếu
là chăn nuôi vịt, rất phát triển ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Sản lượng của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 56% sản
lượng thịt vịt hơi trên toàn quốc.