Bản tin E-news tuần từ 07/01- 13/01/2007

 

I. Thị trường và ngành hàng

Thóc nhập khẩu từ Campuchia được áp thuế 0%

Có thể xuất khẩu 5 triệu tấn gạo trong năm 2007

Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu cao su đă hoạt động

Kim ngạch xuất khẩu cao su đạt trên 1,2 tỷ USD

Ấn Độ sẽ chiếm lĩnh thị trường hạt tiêu thế giới trong những tháng tới

Ấn Độ: xuất khẩu chè trong tháng 10/06 giảm 4,6% so với cùng kỳ năm 2005

Kim ngạch xuất khẩu dừa tháng 11/2006 tăng mạnh

Nga ngừng nhập khẩu đường trắng Belarus

Kim ngạch xuất nhập khẩu rau, quả của Hoa Kỳ trong năm tài khoá 2005/06 tăng

Đăk Lăk: Giá cà phê ít biến động, giá các loại nông sản tăng nhẹ

T́nh h́nh xuất khẩu cao su qua cửa khẩu Móng Cái

Nga-EU đạt được thỏa thuận về nhập khẩu thịt

 

II. Phát triển nông thôn

Năm 2006: Nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng khá

Vốn tích lũy b́nh quân của một hộ nông thôn đạt 6,7 triệu đồng

 

III. Doanh nghiệp và kinh doanh nông sản

Xuất khẩu năm 2007: Biến thách thức thành cơ hội

 

IV. An toàn thực phẩm

Người tiêu dùng đối diện nỗi lo

Bánh phở lại có formol

 

V. Chính sách

Bộ Nông nghiệp và PTNT bổ sung 21 tỷ đồng cứu vụ đông xuân bắc bộ

Công điện số 43/BNN/CĐ của Bộ trưởng về dịch cúm gia cầm

Năm 2007, phấn đấu sản xuất một triệu tấn muối

 

I. Thị trường và ngành hàng

Thóc nhập khẩu từ Campuchia được áp thuế 0%

Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung vừa kư quyết định 01/2007/QĐ-BTC, áp dụng mức thuế ưu đăi 0% đối với mặt hàng thóc nhập khẩu từ Campuchia. Số lượng thóc nhập khẩu có xuất xứ từ Campuchia có thuế suất 0% sẽ được tính vào số lượng gạo nhập khẩu từ nước này theo tỷ lệ quy đổi 2 thóc bằng 1 gạo. Để được hưởng mức thuế 0%, các lô hàng phải có giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) từ Campuchia, đảm bảo được các quy định về định lượng và cửa khẩu thông quan theo quy định của Bộ Thương mại. Trường hợp nhập khẩu vượt quá số lượng hạn ngạch sẽ áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đăi đặc biệt nếu đảm bảo các điều kiện theo quy định. Trường hợp không đảm bảo th́ áp dụng mức thuế nhập khẩu ưu đăi (MFN) hoặc mức thuế suất thông thường.

(Theo Vneconomy )

Có thể xuất khẩu 5 triệu tấn gạo trong năm 2007

Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và Bộ Thương mại đă kiến nghị Chính phủ từ quư I/2007 cho nối lại hợp đồng xuất khẩu gạo, vốn tạm ngưng từ 12/11/2006. Tính đến ngày 27/12, các tỉnh khu vực ĐBSCL đă gieo sạ 1,1 triệu tấn lúa trong kế hoạch 1,5 tấn toàn vụ Đông Xuân. Thành phố Cần Thơ là địa phương đầu tiên hoàn tất toàn bộ diện tích 92.000 ha, nhờ các biện pháp né rầy nên chỉ có 500 ha bị nhiễm bệnh vàng lùn - lùn xoắn lá phải tiêu hủy. Từ triển vọng khống chế dịch bệnh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đă thống nhất với Bộ Thương mại cân đối chỉ tiêu nhu cầu lúa gạo. Sản lượng lúa sản xuất trong năm 2007 có thể đạt 37 triệu tấn, tăng 800.000 tấn so với 2006. Nhu cầu để ăn, làm giống, làm thức ăn chăn nuôi và hao hụt khoảng 27,6 triệu tấn, c̣n lại khoảng 9,3 triệu tấn, tương đương 5 triệu tấn gạo để xuất khẩu.

(Theo Vneconomy)

Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu cao su đă hoạt động

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, cuối năm 2006 vừa qua, Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu cao su đă chính thức đi vào hoạt động. Hiệp hội cho biết, điều này xuất phát từ thực tế là giá cao su tuy thuận lợi trong mấy năm gần đây nhưng t́nh h́nh rất dao động. Nhằm góp phần khắc phục và hạn chế rủi ro trong xuất khẩu cao su, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ tài chính lẫn nhau giữa các hội viên trong Hiệp hội, Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu cao su đă được Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất thống nhất thành lập. Quỹ bảo hiểm có tư cách pháp nhân và con dấu riêng. Quỹ được sử dụng để hỗ trợ cho các thành viên của Quỹ trong năm xuất khẩu cao su bị lỗ do mặt hàng mới, thị trường mới, hoặc do giá cao su giảm đột ngột, gặp rủi ro trong quá tŕnh xuất khẩu do các nguyên nhân khách quan. Quỹ c̣n hỗ trợ một phần lăi suất vay vốn để tạm trữ cao su chờ xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, cho hội viên vay ngắn trung hạn để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ chế biến cao su...

(VnEconomy )

Kim ngạch xuất khẩu cao su đạt trên 1,2 tỷ USD

Theo Hiệp hội cao su Việt Nam, từ đầu năm đến nay, các địa phương trong cả nước đă xuất khẩu gần 660.000 tấn cao su, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1,2 tỷ USD, mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 31% về số luợng và 78% về giá trị so với năm 2005 và đứng vị trí thứ 3 về giá trị kim ngạch xúât khẩu nông sản cả nước. Trong đó sản luợng xuất khẩu cao su của Tổng công ty Cao su Việt Nam chiếm trên 60% tổng sản luợng xuất khẩu của cả nước. Dự kiến trong tháng 12, cả nước sẽ khai thác, chế biến và xuất khẩu thêm trên 70.000 tấn mủ cao su. Ngay từ đầu năm, do nhiều nước sản xuất cao su lớn của Thế giới như Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia... giảm diện tích và sản luợng mủ cao su, trong lúc nhu cầu tiêu thụ cao su nguyên liệu trên thị trường thế giới và những nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc tăng cao, nên đă đẩy giá cao su trên thị trường thế giới tăng cao (giá b́nh quân từ 1.600 đến 2.000 USD/tấn). Nhiều địa phương đă dành nhiều diện tích đất để phát triển và mở rộng diện tích trồng cao su (chủ yếu là cao su tiểu điền), như các tỉnh: B́nh Phước, tăng 8.300 ha, Tây Ninh khỏang 5.600 ha, B́nh Dương 3.000 ha... đưa tổng diện tích cây cao su trên cả nước tăng lên trên 480.000 ha.

 (Vinanet )

Ấn Độ sẽ chiếm lĩnh thị trường hạt tiêu thế giới trong những tháng tới

Các chuyên gia dự báo, trong những tháng tới, Ấn Độ sẽ chiếm lĩnh thị trường hạt tiêu thế giới. Nguyên nhân là do sản lượng hạt tiêu thế giới giảm sút vào vụ mùa tới, sự suy giảm sản lượng tiêu toàn cầu, dự trữ của Braxin gần như không c̣n và vụ mùa tới của Việt Nam chỉ có thể bắt đầu vào đầu tháng 3 năm 2007. Dự báo, giá tiêu có thể lên tới mức 150 Rs/kg. Ước tính, sản lượng tiêu của Việt Nam trong vụ mùa tới bắt đầu vào tháng 3/07 sẽ giảm từ 77.000 tấn xuống 68.000 tấn, và xuất khẩu sẽ giảm 10.000 tấn xuống c̣n 65.000 tấn. Braxin cũng dự kiến sẽ chỉ xuất khoảng 37.000 tấn và nguồn dự trữ trong nước cũng c̣n rất ít. Hiệp hội tiêu thế giới cũng ước tính sự suy giảm lượng dự trữ trong cuối năm 2007, dự kiến sẽ vào khoảng 55.000 tấn, trong khi vào đầu năm 2006 là 79.625 tấn. Tuy nhiên, một số nguồn tin thương mại cho rằng nó thậm chí có thể thấp hơn.Tại Ấn Độ, sản lượng hạt tiêu tại một số vùng phía nam Kerala dự kiến sẽ giảm đến 50%. Hiện tại th́ sản lượng tại Karnataka đă có sự suy giảm rơ rệt.

(Vinanet)

Ấn Độ: xuất khẩu chè trong tháng 10/06 giảm 4,6% so với cùng kỳ năm 2005

Theo thông tin từ Hiệp hội chè Ấn Độ - nước sản xuất và tiêu thụ chè lớn nhất thế giới, trong tháng 10/06, xuất khẩu chè của nước này đạt 19,21 triệu kg, giảm 4,6% so với 20,14 triệu kg cùng kỳ năm 2005. Như vậy, trong 10 tháng đầu năm 2006, khối lượng chè xuất khẩu của Ấn Độ đạt 150,81 triệu kg, giảm 0,28% so với 151,24 triệu kg cùng kỳ năm trước. Sự chậm trễ trong xuất khẩu chè do tắc nghẽn tại cảng là nguyên nhân chính khiến cho khối lượng xuất khẩu tụt giảm nhẹ trong 10 tháng đầu năm, nhưng t́nh trạng này đă được cải thiện trong 2 tháng cuối cùng. Sản lượng chè Ấn Độ trong tháng 10/06 đạt 116,1 triệu kg, giảm so với mức 117,1 triệu kg cùng kỳ năm trước. Thời tiết bất lợi, đặc biệt tại miền Bắc khiến cho sản lượng tụt giảm nhẹ trong tháng 10/06. Tuy nhiên, trong 10 tháng đầu năm, sản lượng chè Ấn Độ vẫn tăng gần 3% lên 820,4 triệu kg so với mức 797,5 triệu kg cùng kỳ năm 2005. Theo dự đoán, trong năm dương lịch 2006, Ấn Độ sẽ sản xuất được 945 triệu kg chè, tăng so với 928 triệu kg năm trước, xuất khẩu 195 triệu kg so với mức 192 triệu kg năm 2005.

(Nguồn tin: Reuters)

Kim ngạch xuất khẩu dừa tháng 11/2006 tăng mạnh

Tháng 11 năm 2006, kim ngạch xuất khẩu dừa của nước ta đạt 2,7 triệu USD, tăng 38% so với tháng 10 năm 2006. Trong đó, xuất khẩu sang các thị trường chủ lực đều có mức tăng trưởng khả quan. Trong những năm gần đây, dừa luôn là một trong những mặt hàng rau quả xuất khẩu chính của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng cao. Trong tháng 11 năm 2006, kim ngạch xuất khẩu dừa của nước ta đạt 2,7 triệu USD, tăng 38% so với tháng 10 năm 2006. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu dừa khô đạt trên 2 triệu USD, tăng 24,4% so với tháng 10/2006, đặc biệt kim ngạch xuất khẩu cơm dừa - mặt hàng chủ lực chế biến từ dừa tăng đột biến, tăng 115% so với tháng 10/2006, đạt 642 ngh́n USD. Trong tháng 11/2006, xuất khẩu dừa khô sang hầu hết các thị trường lớn như Trung Quốc, Campuchia, Hàn Quốc đều có mức tăng cao. Đáng chú ư, xuất khẩu dừa khô sang Campuchia trong tháng 11/2006 tăng rất mạnh, tăng 388% so với tháng 10/2006, đạt kim ngạch 226 ngh́n USD, vượt qua Trung Quốc và trở thành thị trường xuất khẩu dừa khô lớn nhất của Việt Nam trong tháng qua.

(Vinanet)

Nga ngừng nhập khẩu đường trắng Belarus

Nga đă ngừng nhập khẩu đường trắng từ Belarus sau khi buộc tội nước láng giềng này xuất khẩu đường làm từ mía thay v́ củ cải.  Tháng trước, mối quan hệ của Belarus với Nga đă xấu đi sau khi Nga nâng giá xuất khẩu khí đốt tự nhiên và đánh mức thuế cao đối với dầu thô xuất khẩu sang các nhà máy tinh luyện Belarus. Tháng trước, mối quan hệ của Belarus với Nga đă xấu đi sau khi Nga nâng giá xuất khẩu khí đốt tự nhiên và đánh mức thuế cao đối với dầu thô xuất khẩu sang các nhà máy tinh luyện Belarus. Được biết, Nga cho phép nhập khẩu miễn thuế đường làm từ củ cải của Belarus. Tuy nhiên, Nga buộc tội Belarus v́ đă xuất khẩu đường mía rẻ tiền mà không chịu thuế áp dụng cho hàng hoá này. Kể từ ngày 29/12/06, tất cả các lô đường xuất khẩu của Belarus sang thị trường Nga đă phải tạm dừng. Các thanh tra hải quan Nga đă và đang thắt chặt các cuộc kiểm tra đối với tất cả đường nhập khẩu của Belarus, xem xét cẩn thận từng chuyến xe chở đường xuất phát từ nước láng giềng này.

(Nguồn tin: Reuters)

Kim ngạch xuất nhập khẩu rau, quả của Hoa Kỳ trong năm tài khoá 2005/06 tăng

Trong năm tài khoá 2005- 2006 (từ tháng 10/2005 đến tháng 9/2006), kim ngạch xuất nhập khẩu mặt hàng rau quả của Hoa Kỳ cùng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2005. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu trái cây và sản phẩm trái cây đạt 6,80 tỷ USD, tăng 14% so với năm tài khóa trước; nhập khẩu trái cây và chế phẩm đạt 6,336 tỷ USD, tăng 12%. Kim ngạch xuất khẩu rau và sản phẩm từ rau cũng tăng mạnh, đạt 6,290 tỷ USD, tăng 12% so với năm tài khóa 2004-2005. Trong đó, xuất khẩu rau tươi và đông lạnh đạt 1,588 tỷ USD (tương đương 1,923 triệu tấn), tăng 4%; rau chế biến và đóng hộp đạt 4,702 tỷ USD (tương đương 2,038 triệu tấn), tăng 15%. Xuất khẩu trái cây tươi và đông lạnh đạt 2,842 tỷ USD (tương đương 2,738 triệu tấn), tăng 11%; xuất khẩu trái cây chế biến và đóng hộp đạt 834 triệu USD (tương đương 489 ngàn tấn), tăng 9%; xuất khẩu nước trái cây ép đạt 892 triệu USD (tương đương 11,156 triệu tấn), tăng 17% so với năm trước.

Nhập khẩu rau và sản phẩm từ rau cũng tăng mạnh, đạt 8,258 tỷ USD, tăng 9% so với năm tài khóa 2004-2005. Trong đó, nhập khẩu rau tươi và đông lạnh đạt 5,028 tỷ USD (tương đương 5,370 triệu tấn), tăng 12%; nhập khẩu rau chế biến và đóng hộp đạt 3,230 tỷ USD (tương đương 1,838 triệu tấn), tăng 6%. Nhập khẩu trái cây tươi và đông lạnh tăng 12%, đạt 5,019 tỷ USD (tương đương 8,232 triệu tấn), nhập khẩu trái cây chế biến và đóng hộp tăng 13%, đạt 1,317 tỷ USD (tương đương 1,174 triệu tấn), nhập khẩu nước trái cây ép tăng 5%, đạt 1,053 tỷ USD.

(Vinanet)

Đăk Lăk: Giá cà phê ít biến động, giá các loại nông sản tăng nhẹ

Gần 1 tuần nay, giá cà phê nhân (Robusta) ở Đăk Lăk biến động không đồng nhất. Ngày 28/12/2006 cà phê nhân xô có giá 21.900 đồng/kg nhưng ngày 29/12 lại giảm xuống chỉ c̣n 21.500 đồng/kg. Tuy nhiên, đến ngày 2/1/2006, giá cà phê nhân xô lại nhích lên 21.600 đồng/kg. Giới kinh doanh cà phê nhận định, từ nay đến cuối tháng 1/2007, giá cà phê sẽ vẫn tiếp tục tăng, giảm nhẹ; nông dân sẽ bán nhiều cà phê hơn hơn để có tiền mua sắm và chi tiêu trong dịp tết nguyên đán. Cũng trong thời gian qua, giá các loại nông sản xuất khẩu tương đối ổn định. Ca cao hạt lên men có giá 22.000 đồng/kg; mật ong loại xuất khẩu bán lẻ ở mức 38.000 đồng/lít. Tại TP Buôn Ma Thuột và các huyện lân cận, giá nông sản tăng nhẹ. Gạo dẻo bán ra từ 5.500-5.900 đồng/kg, gạo thơm các loại 6.500-9.000 đồng/kg, gạo nếp ngon từ 9.000-10.000 đồng/kg. Giá các loại thực phẩm tươi sống cũng tăng chút ít. Thịt ḅ bắp giá 65.000 đồng/kg, thịt ḅ phi lê 75.000 đồng/kg, thịt lợn nạc giá 35.000 đồng/kg, thịt lợn mông 30.000 đồng/kg, lơn hơi 15.500-16.000 đồng/kg. Gà ta có giá 45.000-50.000 đồng/kg, thịt gà công nghiệp làm sẵn là 35.000-37.000 đồng/kg, thịt vịt 35.500-40.000 đồng/con. Trứng gia cầm các loại đều tăng, trong đó trứng gà ta là 1.800-2.000 đồng/quả, trứng gà công nghiệp 1.200-1.300 đồng/quả, trứng vịt 1.500-1.600 đồng/quả và trứng chim cút 300 đồng/quả.
(Vinanet)

T́nh h́nh xuất khẩu cao su qua cửa khẩu Móng Cái

Giá xuất khẩu cao su sang Trung Quốc qua cửa khẩu Móng Cái tiếp tục tăng. Nhu cầu nhập khẩu của đối tác Trung Quốc đang ở mức cao hơn so với nguồn cung cấp từ Việt Nam. Hiện giá xuất khẩu cao su sang Trung Quốc đă tăng thêm 1.300NDT/tấn so với trung tuần tháng 12/06. Giá cao su SVR3L đạt mức 15.400NDT/tấn. Các loại cao su khác như SVR10, SVR20, CSR10, CSR10, CSRL, RSS3…đều có giá xuất khẩu tăng đáng kể, từ 950-1.100NDT/tấn. Cao su hỗn hợp chế biến tại các xưởng trên địa bàn cửa khẩu Móng Cái và mủ nguyên khai latex xuất khẩu theo đường chính ngạch cũng tăng trung b́nh 1.000NDT/tấn. Hiện nay, tại cửa khẩu Đông Hưng (Trung Quốc), có khoảng 30 công ty, đơn vị và hàng chục thương nhân Trung Quốc đang túc trực để giao dịch nhập khẩu cao su Việt Nam. T́nh trạng thiếu hàng xuất khẩu đang xảy ra ở cửa khẩu Móng Cái. Nhu cầu nhập khẩu cao su của các đối tác Trung Quốc vào khoảng 1.000-1.300 tấn/ngày, nhưng nguồn cung cấp từ Việt Nam hiện chỉ đáp ứng một nửa nhu cầu. Chính v́ vậy, các đối tác nhập khẩu vẫn tiếp tục nâng giá mua để hút hàng.

(Vinanet)

Nga-EU đạt được thỏa thuận về nhập khẩu thịt

Ngày 19/12, Nga và Liên minh châu Âu (EU) đă đạt được thỏa thuận về nhập khẩu thịt, theo đó, Nga sẽ tiếp tục nhập khẩu thịt của EU từ ngày 1/1/07. EU và Nga đă nhất trí trên nguyên tắc về thỏa thuận này và các chuyên gia hai bên đang dự thảo Bản Ghi nhớ chung (MOU) - dự kiến sẽ được kư kết vào ngày 18/1/07 tại Béclin, Đức. Ủy viên Thương mại EU, Markos Kyprianou, cho hay, hai bên đă nỗ lực giải quyết vấn đề này bởi cùng chia sẻ lo ngại và mục tiêu chung là giảm bớt những nguy cơ song song với việc duy tŕ thương mại. Tuy nhiên, Bộ trưởng Nông nghiệp Nga không đưa ra b́nh luận nào. Tháng 11 vừa qua, Nga đă dọa sẽ cấm nhập khẩu tất cả sản phẩm thịt của EU từ ngày 1/1/07, do lo ngại về tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm của hai nước sẽ trở thành thành viên EU từ đầu năm tới là Bungari và Rumani. Nga cũng đă áp đặt lệnh cấm nhập khẩu thịt của Ba Lan cùng với lư do trên, dẫn đến việc Vácsava gây trở ngại cho việc bắt đầu cuộc đàm phán về thỏa thuận thương mại và năng lượng mới EU-Nga. Tuần trước, một quan chức cấp cao trong ngành thú y của Nga nói rằng, từ ngày 1/1/07 Nga sẽ chỉ nhập khẩu thịt của những nước EU sẵn sàng kư kết các thỏa thuận song phương về đảm bảo an toàn thực phẩm.

(Vinanet)

 
 

II. Phát triển nông thôn

Năm 2006: Nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng khá

Trong năm 2006, sản xuất nông nghiệp nước ta gặp nhiều khó khăn về thời tiết xấu, thiên tai và dịch bệnh, song nh́n chung giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn có tăng trưởng khá.

Những kết quả đáng ghi nhận

Vượt qua khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng khá so với năm 2005. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 ước tăng 3,1%, trong đó trồng trọt tăng 1,9%, chăn nuôi tăng 7,7% và dịch vụ tăng 2,7%. Sản xuất lương thực vẫn tiếp tục phát triển và tăng nhẹ so với năm 2005. Dù bị thiên tai, sâu bệnh phá hoại nặng nề nhưng sản xuất lương thực vẫn phát triển và đạt kết quả khá, nhất là lúa. Sản xuất lúa chuyển dần theo hướng ổn định và giảm dần diện tích, đồng thời chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích lúa đông xuân, giảm diện tích lúa mùa năng suất không ổn định, tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất và tăng sản lượng, đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu gạo. Diện tích lúa cả năm 2006 đạt 7,32 triệu ha, giảm 6,4 ngh́n ha, năng suất ước đạt 48,94 tạ/ha, tăng 0,05% và sản lượng ước đạt 35,834 triệu tấn, tăng 0,7 ngh́n tấn so với năm 2005.

Chăn nuôi từng bước hồi phục sau cúm gia cầm. Tại thời điểm ngày 1-8-2006, đàn trâu đạt 2,921 triệu con, giảm 1.104 con và bằng 99,96% so với cùng kỳ năm trước; Hiện nay, mô h́nh phát triển đàn ḅ sữa ở nhiều tỉnh không hiệu quả cho nên hơn 50% số tỉnh, thành phố có đàn ḅ sữa giảm so với năm 2005, đặc biệt một số tỉnh giảm hơn 50% như Phú Yên, B́nh Định, Tây Ninh, Trà Vinh, Tuyên Quang. Đàn lợn đạt 26,9 triệu con, tăng 3% so cùng kỳ 2005; Đàn gia cầm đạt 214,564 triệu con bằng 97,6% so cùng kỳ 2005.

Những vấn đề đặt ra

Bên cạnh những khởi sắc, trong nông nghiệp năm 2006 đă xuất hiện một số vấn đề nổi cộm rất đáng quan tâm.

Năng suất và sản lượng lúa đông xuân, hè thu, nhất là thu đông ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đều giảm sút là dấu hiệu đáng lo ngại không chỉ cho năm nay mà c̣n cả triển vọng những năm tới do bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá lây lan trên diện rộng và chưa có dấu hiệu giảm và đang là nguy cơ đối với sản xuất lúa của vùng, tác động trực tiếp đến an ninh lương thực cả nước và xuất khẩu gạo. Sản xuất rau màu, cây công nghiệp, cây ăn quả tuy có tiến bộ nhưng chưa đều và chưa vững chắc. Một số cây công nghiệp hằng năm như lạc, đỗ tương, mía vẫn tăng giảm không đều giữa các vùng.

Dịch lở mồm, long móng ở gia súc tuy có giảm về số địa bàn bị dịch nhưng chưa có khả năng khống chế trên phạm vi cả nước. Trong khi, công tác tiêm pḥng, dập dịch tại các địa bàn có dịch, quản lư thị trường thịt gia súc vẫn c̣n nhiều hạn chế, bất cập.

Vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi năm 2006 vẫn trong t́nh trạng tự phát, manh mún, không theo quy hoạch. Đáng lo ngại là đă có xu hướng chuyển đổi ngược chiều từ ruộng nuôi tôm, cá không hiệu quả sang cấy lúa, diện tích lúa đông xuân 2006 vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng hơn 21 ngh́n ha, nhưng năng suất giảm. Trong chăn nuôi cũng diễn ra t́nh h́nh tương tự giữa gia súc lai và gia súc truyền thống, nhưng chưa có giải pháp tích cực, có hiệu quả.

Băo số 6 và băo số 9 đă gây thiệt hại nặng cho hàng trăm công tŕnh thủy lợi và hàng ngh́n ha rau màu, cây công nghiệp, cây ăn trái lâu năm ở các tỉnh miền trung và Nam Bộ. Hậu quả băo lũ để lại rất nặng nề.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT)

 

Vốn tích lũy b́nh quân của một hộ nông thôn đạt 6,7 triệu đồng

Ban Chỉ đạo T.Ư tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản đă có báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006.

Kết quả cuộc điều tra cho biết, kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta đă được nâng cấp và hoàn thiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới với 99% số xă có điện, 96,7% số xă có đường ô tô đến trụ sở UBND xă, mạng lưới y tế xă gần như đă được phủ kín trên phạm vi cả nước...

Cơ cấu ngành nghề của hộ, lao động nông thôn đă có sự chuyển dịch rơ nét theo hướng tích cực, số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm trong khi số lượng và tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp và dịch vụ tăng. Sản xuất phát triển, thu nhập tăng nên vốn tích lũy trong dân tăng khá, ước tính tổng vốn tích lũy của các hộ nông thôn khoảng 87,7 ngh́n tỉ đồng. Vốn tích lũy b́nh quân một hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng, gấp 2,1 lần so với tích lũy tại thời điểm 1.10.2001.

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)


 

III. Doanh nghiệp và kinh doanh nông sản

Xuất khẩu năm 2007: Biến thách thức thành cơ hội

Dự báo kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 46,8 tỷ USD, tăng 17%. Rào cản thương mại sẽ tăng áp lực.

Gạo, cà phê, cao su… sẽ tiếp tục là những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (VN), góp mặt trong câu lạc bộ xuất khẩu 1 tỷ USD trong năm 2007. Các sản phẩm công nghiệp sẽ có nhiều khả năng tăng tốc xuất khẩu do kết quả của quá tŕnh thu hút đa dạng nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là các dự án có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)...

Đó là những dự báo về triển vọng xuất khẩu 2007, với tổng kim ngạch 46,8 tỷ USD, tăng khoảng 17% so với năm 2006.

Nông sản sẽ tiếp tục trúng giá

Cuối tháng 12-2006, lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu cà phê vượt qua kỷ lục 1 tỷ USD, đạt trên 1,1 tỷ USD với lượng xuất khẩu đạt 897.000 tấn.

Đặc biệt, giá xuất khẩu cà phê, hạt tiêu, gạo sẽ vẫn duy tŕ ở mức cao; giá xuất khẩu cao su và điều nhân có thể tăng nhẹ trở lại.

Đối với xuất khẩu gạo của VN, do diện tích và sản lượng trong năm 2007 dự báo sẽ giảm (chủ yếu do ảnh hưởng của dịch bệnh), lượng gạo xuất khẩu trong năm 2007 có thể giảm - ước đạt 4-4,2 triệu tấn, giảm khoảng 14% so với năm 2006.

kim ngạch xuất khẩu cao su vẫn đạt được con số ngoạn mục: 1,3 tỷ USD, tăng 62% so với năm 2005. Dự báo, xuất khẩu cao su trong năm 2007 sẽ đạt khoảng 830.000 tấn, với kim ngạch gần 1,4 tỷ USD, tăng 15% về lượng và tăng khoảng 7% – 8% về trị giá so với năm 2006. Hiệp hội Cà phê – Ca cao VN cũng cho biết: so với cùng kỳ, giá xuất khẩu cà phê Robusta của nước ta đă tăng khoảng 40%, vượt hơn 1.400 USD/tấn và dự báo giá sẽ c̣n tăng nhẹ.

Thêm nhiều rào cản từ tiến tŕnh hội nhập

2007 sẽ là năm đầu tiên VN bước vào sân chơi WTO một cách đầy đủ. Nhiều thành viên WTO đ̣i hỏi VN phải tuân thủ ngay lập tức các hiệp định WTO như Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS).

Điều đó sẽ đặt những gánh nặng về tài chính và kỹ thuật không nhỏ cho VN trong thời gian tới. Bên cạnh đó, các rào cản thương mại cũng sẽ được dựng lên với hàng hóa của VN – như một tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu.

(Nguồn: Sài G̣n Giải phóng)

 

IV. An toàn thực phẩm

Người tiêu dùng đối diện nỗi lo

Những kết quả phân tích cho thấy hoóc môn tăng trưởng đă được sử dụng khá phổ biến trong chăn nuôi và rất khó kiểm soát. Sau thông tin thịt heo tồn dư hoóc môn tăng trưởng tràn lan trên thị trường, Cục Chăn nuôi - Bộ NN-PTNT đă cùng với sở NN-PTNT các địa phương Đồng Nai, TP.HCM, B́nh Dương, Long An... tiến hành lấy mẫu để phân tích.

Kết quả phân tích “đá nhau”

Đầu tháng 12-2006, Sở NN-PTNT TP.HCM đă phân tích 25 mẫu thịt heo của 25 cơ sở bày bán trên thị trường TP.HCM, kết quả có 2 mẫu cho kết quả dương tính với chất hoóc môn tăng trưởng (họ Beta-Agonist). Tuy nhiên, ngay sau khi có kết quả phân tích này, một trong hai cơ sở không đồng t́nh và đă mang mẫu đi thử lại tại Công ty Dịch vụ Thí nghiệm phân tích TP.HCM. Kết quả phân tích lần sau đă trái ngược với kết quả lần trước, một mẫu đă phân tích dương tính trước đó nay lại cho kết quả âm tính với Beta-Agonist.

10,98% mẫu thức ăn chăn nuôi dương tính

Theo khảo sát và nghiên cứu của Viện KHKT nông nghiệp Miền Nam trên 428 mẫu thức ăn chăn nuôi của Cục Chăn nuôi, 12 tỉnh, thành và một số công ty chế biến thức ăn chăn nuôi, có đến 47 mẫu dương tính với Beta-Agonist (chiếm tỉ lệ 10,98%) và hầu hết các mẫu thức ăn chăn nuôi này đều là thức ăn dành cho heo, từ heo con, heo nái đến heo lấy thịt. Những kết quả này cho thấy hoóc môn tăng trưởng đă được sử dụng khá phổ biến trong chăn nuôi và rất khó kiểm soát. PGS-TS Lă Văn Kính, Phó Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp Miền Nam, cho biết: “Hoóc môn có họ Beta-Agonist bị cấm làm chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi ở nước ta. Muốn thịt heo không bị tồn dư hoóc môn tăng trưởng, chỉ có cách là thôi không dùng đến chất này chứ không c̣n cách nào khác”. Điều đáng lo khác, theo PGS-TS Kính là việc người tiêu dùng không thể phân biệt được loại nào là thịt heo sạch, loại nào là thịt heo có tồn dư hoóc môn tăng trưởng để pḥng tránh.

(Theo Người lao động)

Bánh phở lại có formol

Ngày 5/1, tại cuộc họp báo ở Hà Nội, Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) Trần Đáng cho biết: “2/5 cơ sở kinh doanh ăn uống ở Hà Nội mà đoàn liên ngành kiểm tra trong dịp phục vụ APEC vừa qua đă phát hiện sử dụng bánh phở có formol”. Tại Hà Nội, hiện nay, chỉ c̣n 51 cơ sở sản xuất bánh phở, sau khi đă được Sở Y tế kiểm tra, giám sát 3 tháng/lần về các chỉ tiêu vi sinh, hoá lư. Theo một xét nghiệm mới đây do Trung tâm Y tế dự pḥng TPHCM thực hiện, trong 20 mẫu bánh phở được đem đi phân tích có 16 mẫu có chứa formol, hàn the. Đặc biệt tại TPHCM có nơi hàm lượng formol lên đến 6,9 mg/kg bánh. Theo một lănh đạo của trung tâm đánh giá: "Đây là hàm lượng cao đến không ngờ. Tỉ lệ thực phẩm sử dụngformol ở TPHCM chưa hề giảm bớt, tỉ lệ cơ sở bị xử lư rồi tái phạm c̣n rất cao".

(Theo VNmedia)

V. Chính sách

Bộ Nông nghiệp và PTNT bổ sung 21 tỷ đồng cứu vụ đông xuân bắc bộ

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đă phê duyệt nguồn kinh phí 21 tỷ đồng để cải tạo thủy lợi phục vụ công tác chống hạn trong vụ đông xuân 2006-2007 ở các tỉnh phía Bắc. Số tiền  này sẽ được dùng để nạo vét khẩn cấp một số tuyến kênh dẫn nước của các hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải, Sông Nhuệ và Bắc Nam Hà nhằm đảm bảo cấp nước sản xuất và sinh hoạt.

Dự kiến vụ đông xuân 2006-2007, các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc bộ sẽ có khoảng 242.000ha diện tích đất trồng trọt khó khăn về nguồn nước tưới. Diện tích này tập trung chủ yếu ở các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương./.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT)

 

Công điện số 43/BNN/CĐ của Bộ trưởng về dịch cúm gia cầm

Chưa đầy 2 tuần sau khi tái phát tại Việt Nam, dịch cúm gia cầm đang hoành hành tại 26 xă, phường tại các tỉnh phía Nam. Dịch cúm gia cầm  đang tiến ra miền Trung và nguy cơ đe dọa các tỉnh phía Bắc là rất cao do nhu cầu tiêu thụ cuối năm tăng, nhất là khi dịp Tết nguyên đán đang đến gần. Đứng trước t́nh h́nh cấp bách như hiện nay, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT đă có Công điện số 43 BNN/CĐ về việc gấp rút triển khai các biện pháp đồng bộ pḥng bệnh cúm gia cầm tái phát, đề nghị: Khôi phục ngay hoạt động kiểm dịch động vật nội địa, thiết lập các trạm, chốt hoặc các đội kiểm dịch lưu động tại các tuyến giao thông đường bộ, đường thủy; từng huyện, xă bố trí lực lượng phối hợp kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển, buôn bán gia cầm, sản phẩm gia cầm, nhất là từ nay đến trước Tết âm lịch. Tăng cường hoạt động chống buôn bán gia cầm và sản phẩm gia cầm chưa qua chế biến qua biên giới./.

Đến thời điểm này, chúng tôi đề nghị mọi bộ phận nhân dân không được có tư tưởng chủ quan, coi thường dịch, khi phát hiện dịch phải khai báo và hợp tác với các cơ quan trong việc thực hiện các biện pháp pḥng, chống dịch. Mọi trường hợp che dấu sai phạm, hoặc vận chuyển, buôn bán gia cầm chưa được dấu kiểm dịch sẽ được xử lư theo đúng pháp luật.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT)

 

Năm 2007, phấn đấu sản xuất một triệu tấn muối

Năm 2007, với nhu cầu cả nước sử dụng 1,31 triệu tấn muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra kế hoạch sản xuất một triệu tấn muối.

Năm 2006, sản lượng muối cả nước đạt hơn 792 ngh́n tấn, giảm 25,8% so với năm trước, chủ yếu do thời tiết không thuận lợi. V́ vậy, nước ta đă phải nhập khẩu 200 ngh́n tấn muối để sản xuất muối công nghiệp. Mặc dù sản lượng giảm, nhưng nhờ áp dụng nhiều  công  nghệ  mới   như  sản xuất muối sạch, kết tinh dài ngày có che phủ nylon, cho nên giá muối tăng đáng kể, góp phần đưa thu nhập của nông  dân  làm muối ở các tỉnh  phía bắc đạt b́nh quân 285-300 ngh́n đồng/người/tháng; ở miền trung đạt 250 - 350 ngh́n đồng/người/tháng và miền nam đạt 285-375 ngh́n đồng/người/tháng.

(Nguồn tin: Nhân dân)

 



Chi tiết xin liên hệ: Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Địa chỉ số 6 Nguyễn Công Trứ, Hai Bà Trưng, Hà Nội

ĐT: 844.9725153

Fax: 844.9725153
Email: agroinfo@ipsard.gov.vn Website:www.ipsard.gov.vn