Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Công nghệ nào cho hạt gạo Đồng bằng sông Cửu Long?
12 | 09 | 2008
Việt Nam hiện đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng hạt gạo Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu cụ thể ở thị trường nước ngoài. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cho rằng: “Tăng cường đầu tư công nghệ để tăng năng suất lúa, trong đó coi đầu tư công nghệ cho khâu chọn giống có ý nghĩa quan trọng và quyết định năng suất, phẩm chất hạt gạo”.
Với mục tiêu xây dựng “Cánh đồng một giống”, các nhà khoa học vào cuộc để nghiên cứu giống tốt, doanh nghiệp cùng chung tay với nông dân và nhà nước tiêu thụ lúa một cách đồng bộ sẽ là giải pháp hữu hiệu để hạt gạo Việt Nam có thương hiệu.

Bất cập trong khâu chọn giống

Theo Cục Trồng trọt, năm 2008 sản lượng lúa hàng hóa toàn vùng ĐBSCL ước đạt 20,5 triệu tấn (cả nước khoảng 37 triệu tấn). Hiện nay, gạo Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gạo 15% và 25% tấm, gạo 5% tấm chiếm rất ít, do tỷ lệ gạo nguyên sau xay xát thấp. Nếu xay 100 kg lúa, lượng gạo thu được từ 65-70 kg, nhưng lượng gạo nguyên chỉ chiếm khoảng 30-40% tổng số này. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, cho biết: “Ở các nước tiên tiến, tỷ lệ gạo nguyên sau xay xát đạt trên 50% tổng lượng gạo thu được. Còn ở ĐBSCL, tỷ lệ này rất thấp, chỉ từ 30-40%, nguyên nhân do khâu canh tác, chọn giống, tồn trữ và bảo quản của ta chưa tốt. Do đó, giá gạo xuất khẩu của ta không cạnh tranh lại với Thái Lan”. Theo tiến sĩ Lê Văn Bảnh, một bao gạo của Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài có gần một chục giống lúa trộn lẫn. Do đó, việc xây dựng thương hiệu gặp nhiều trở ngại so với hạt gạo Thái Lan đã có thương hiệu từ lâu. Hơn nữa, tỷ lệ sử dụng giống xác nhận ở ĐBSCL chưa nhiều cũng làm giảm giá trị hạt gạo.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), toàn vùng ĐBSCL mới sử dụng khoảng 34% giống xác nhận trong gieo sạ. Trên thực tế, hàng năm ĐBSCL cần khoảng 400.000 tấn giống lúa xác nhận, nhưng nguồn giống từ các Viện, trường, trung tâm... chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu. Toàn vùng ĐBSCL gieo trồng trên 100 giống lúa, trong đó chủ lực chừng 20 giống và 80% giống có nguồn gốc từ Viện lúa ĐBSCL. Hiện nay, Viện lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam đang thực hiện dự án nhân giống lúa để phục vụ mục tiêu có 1 triệu ha lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu tại các tỉnh phía Nam đến năm 2010. Tỷ lệ sử dụng giống lúa xác nhận trong gieo sạ ở ĐBSCL được cải thiện rất nhiều, trong khi ở năm 2001 chỉ đạt 10%, nhưng vẫn còn là thách thức lớn. Bởi trên thực tế, giống xác nhận chính quy có qui trình kiểm định, kiểm nghiệm đạt chuẩn chỉ khoảng 9%. Số còn lại do các cơ quan, trung tâm giống tự chứng nhận khi kiểm tra đúng qui trình sản xuất được khuyến cáo.

Thạc sĩ Phạm Văn Quỳnh, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho biết: “Mấy năm gần đây, Hội đồng nhân dân thành phố dành kinh phí khoảng 1 tỉ đồng/năm để phục vụ công tác chọn giống. Ngành nông nghiệp Cần Thơ đã xây dựng hệ thống nhân giống lúa 3 cấp ở các HTX, tổ hợp tác, CLB quận, huyện. Hiện tại, có khoảng 500 ha làm giống nguyên chủng trong hệ thống, nếu tính bình quân 6 tấn/ha/vụ thì cung ứng khoảng 3.000 tấn giống/vụ, nhưng con số này còn rất nhỏ lẻ. Ngành nông nghiệp thành phố đang xây dựng chương trình hợp tác với Viện lúa ĐBSCL để lai tạo một vài giống lúa đặc trưng cho riêng Cần Thơ, giai đoạn 2008- 2009”. Trong định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, TP Cần Thơ xác định chọn sản xuất giống làm khâu đột phá để phát triển. Nhưng việc triển khai chương trình còn nhiều lúng túng.

Trên thực tế, bình quân diện tích canh tác trên nông hộ ở ĐBSCL nhỏ lẻ, do vậy việc chọn giống lúa canh tác phụ thuộc rất lớn vào “sở thích” của nông dân. Vì thế mới có tình trạng có địa phương gieo sạ trên 100 giống lúa. Trong khi đó, việc thu mua lúa hàng hóa phụ thuộc chủ yếu vào thương lái. Khi đưa vào nhà máy xay xát, thương lái chỉ phân loại hạt gạo dài, hạt ngắn và bán cho doanh nghiệp để xuất khẩu. Do vậy, mới có tình trạng phổ biến một bao gạo có gần một chục giống lúa. Đây không chỉ là rào cản cho việc xây dựng hạt gạo mà còn ảnh hưởng đến giá thành, cạnh tranh trên thị trường.

Tăng năng suất phải tăng đầu tư

Hiện tại, bình quân năng suất lúa vụ hè thu ở ĐBSCL 5-6 tấn/ha, vụ đông xuân 7-8 tấn/ha. Một số ý kiến cho rằng, năng suất này đã “đội trần”. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, nói: “Ý kiến cho rằng năng suất lúa ở ĐBSCL hiện đã “đội trần” là không đúng. Hiện tại, năng suất trung bình từ 6-8 tấn/ha. Tuy nhiên, vẫn có thể đạt mức năng suất tiềm năng 8-10 tấn/ha. Điều này phụ thuộc vào trình độ canh tác của nông dân, khả năng tài chính của nông dân để quyết định mức đầu tư phù hợp”. Theo tiến sĩ Lê Văn Bảnh, để đạt năng suất tiềm năng, nông dân phải tăng chi phí đầu tư, nhưng hiệu quả kinh tế chưa hẳn cao hơn hiện tại. Ông cho rằng, trước đây, vụ lúa hè thu năng suất chỉ 3 tấn/ha, nhưng hiện nay đã tăng 5-6 tấn/ha và kỹ thuật canh tác của nông dân cũng đã nâng cao rất nhiều.

Ông Phạm Văn Khiêm, ấp Thạnh Lợi, xã Trung Thạnh, huyện Thốt Nốt, TP Cần Thơ, 5 năm liền là nông dân sản xuất giỏi, cho biết: “Hiện giá thành sản xuất 1 kg lúa đã trên 3.000 đồng. Năng suất hè thu 5-6 tấn/ha, thu đông chỉ hơn 4 tấn/ha, đông xuân 7-8 tấn/ha nếu canh tác tốt, bón phân cân đối, giống tốt. Tôi nghĩ tăng năng suất cao hơn mức hiện tại vẫn được, nhưng phải bỏ thêm chi phí đầu tư. Trong điều kiện giá cả tăng, giá lúa hàng hóa lại bấp bênh, nông dân chúng tôi rất ngại đánh đổi”. Ông Khiêm đang canh tác 2 ha đất trồng lúa, chi phí đầu vào tăng, nên việc đầu tư thêm cần phải cân nhắc nhiều yếu tố liên quan đến thị trường và còn phải đảm bảo việc tái đầu tư cho vụ sau.

Hàng năm, ĐBSCL có gần 4 triệu ha trồng lúa. Những năm gần đây, một số địa phương đã trồng thử nghiệm giống lúa ưu thế lai, năng suất trung bình 8-10 tấn/ha, nhưng diện tích không nhiều và chưa phổ biến. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, nhận định: “Giống ưu thế lai hoàn toàn thích hợp với vùng ĐBSCL, năng suất cao, nhưng cũng nhiều nhược điểm. Cách đây hơn 10 năm, Viện đã nghiên cứu giống lúa ưu thế lai, nhưng không đẩy mạnh và nhân rộng. Bởi ưu điểm của giống lúa này là người sản xuất có thể đăng ký quyền sở hữu trí tuệ giống đầu dòng, năng suất cao, nhưng khả năng chống chịu sâu bệnh kém hơn lúa thuần, chất lượng hạt gạo không cao, nhiều sâu bệnh. Nông dân phải bỏ chi phí đầu tư rất lớn”. Ở khu vực miền Trung và miền Bắc trồng chủ yếu là giống lúa ưu thế lai có xuất xứ từ Trung Quốc, nên phụ thuộc vào nguồn cung, do giống chỉ sử dụng được 1 lần. Còn ở ĐBSCL có đến 95% diện tích gieo sạ là giống cao sản, ngắn ngày, giống lúa thơm chỉ chiếm khoảng 5% (các loại giống dài ngày, gạo thơm, dẻo... ) tập trung ở vùng nước lợ. Việc gieo trồng lúa cao sản ngắn ngày có lợi thế là độ thuần hạt gạo cao và nếu không mua được giống xác nhận để gieo sạ, nông dân có thể dùng giống thương phẩm để sạ trở lại cũng không ảnh hưởng nhiều đến năng suất.

Tạo dựng thương hiệu

Xuất khẩu gạo Việt Nam đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Trong đó, 90% sản lượng gạo xuất khẩu có nguồn gốc từ ĐBSCL. Các nhà khoa học cho rằng, khả năng cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam kém xa Thái Lan rất nhiều về chất lượng và cả giá thành. Do hạt gạo Thái Lan đã có thương hiệu từ lâu và 70% diện tích trồng lúa là lúa mùa, 30% lúa cao sản. Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, giống lúa mùa Thái Lan dài ngày, việc khống chế dịch bệnh cũng tốt hơn so với qui trình canh tác ở Việt Nam. Giá trị thương phẩm của hạt gạo Thái Lan cao hơn Việt Nam từ 100- 200 USD/tấn, do chỉ gieo sạ một vài giống chủ lực, sản lượng lớn, đồng nhất.

Theo tiến sĩ Lê Văn Bảnh, không nhất thiết phải phát triển diện tích lúa mùa để xuất khẩu, do không có khả năng cạnh tranh so với Thái Lan. Hiện nay, một số doanh nghiệp đã thu mua lúa thơm này để phục vụ thị trường nội địa (tiêu thụ ở khách sạn, nhà hàng), giá thành khá cao và ổn định. Còn canh tác giống lúa cao sản ở ĐBSCL có nhiều lợi thế, thời gian thu hoạch ngắn, khống chế dịch bệnh cũng dễ và có thể tăng vòng quay của đất để tăng sản lượng, thay vì trồng lúa mùa, một năm chỉ được 1 vụ. Do tốc độ đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp giảm, việc tăng vòng quay của đất để tăng sản lượng lúa là cần thiết. Song song đó, phải ưu tiên đầu tư công nghệ sinh học cho chọn giống và chọn giống kháng chống chịu sâu bệnh.

Hiện nay, 70-80% giống lúa của Viện lúa ĐBSCL đưa ra đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Bộ NN&PTNT cũng khuyến cáo giống lúa sử dụng để phục vụ 1 triệu hecta lúa chất lượng cao xuất khẩu gồm: IR 64, VND 95-20, OMCS 2000, OM 2517, OM 2717, OM 3536. Ngoài ra, có thể sử dụng giống Jasmine 85, ST 5 nhưng phải khống chế diện tích không quá 20% diện tích gieo sạ trên mỗi huyện, địa phương. Bên cạnh việc chọn giống thì cơ giới hóa khâu thu hoạch và sau thu hoạch phải chú trọng. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch ở ĐBSCL khoảng 14%. Do khâu sau thu hoạch chưa được quan tâm triệt để, cũng như chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp tham gia. Ngành nông nghiệp đặt ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010-2015, tỷ lệ thất thoát này giảm còn 5-8% và nếu đạt tỷ lệ này hàng năm ĐBSCL sẽ có thêm 2 triệu tấn lúa.

Ngoài ra, có chính sách dài hơi để xây dựng thương hiệu cho hạt gạo ĐBSCL nói riêng, Việt Nam nói chung. GS-TS - Võ - Tòng Xuân, nói: “Cần phải xây dựng thương hiệu để khẳng định giá trị hạt gạo Việt Nam. Và phải bắt đầu từ doanh nghiệp, sự hợp tác của doanh nghiệp và nông dân cùng với nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ tạo ra vùng sản xuất rộng lớn”. Còn tiến sĩ Lê Văn Bảnh, cho rằng: “Phải tổ chức lại sản xuất theo hướng cánh đồng một giống ở những tổ hợp tác, trang trại, hợp tác xã. Điều này sẽ thuận lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và thực hiện qui trình cơ giới hóa một cách đồng bộ. Có chính sách hỗ trợ hợp lý cho nông dân và doanh nghiệp trong việc bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy, hạt gạo Việt Nam mới có thương hiệu”.

Hiện tại, một số địa phương trong vùng đã thực hiện chính sách hỗ trợ để nông dân mua máy gặt đập liên hợp giai đoạn 2008-2010, như TP Cần Thơ, tỉnh Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang... bước đầu đã đạt kết quả khả quan. Ngoài ra, TP Cần Thơ đang triển khai thực hiện chương trình nông nghiệp chất lượng cao, chọn sản xuất giống lúa và thủy sản làm khâu đột phá để cung cấp giống cho toàn vùng. Tỉnh An Giang cũng đã phát động phong trào thi đua thực hiện Chương trình sản xuất lúa theo hướng công nghiệp hóa giai đoạn 2008- 2009... Đây sẽ là tín hiệu vui cho ngành nông nghiệp của ĐBSCL trong xu thế hội nhập.



Nguồn: www.kinhtenongthon.com.vn
Báo cáo phân tích thị trường