Mỗi thị trường một tiêu chuẩn
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, doanh nghiệp muốn được xuất khẩu thủy sản vào Mỹ thì điều bắt buộc đầu tiên là phải có HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc mà Mỹ quy định cho bất kỳ sản phẩm thực phẩm nào nhập khẩu vào nước họ.
“Có thể sản phẩm đạt tiêu chuẩn HACCP được xuất khẩu vào Mỹ nhưng không có nghĩa là với tiêu chuẩn này lại được nhập khẩu vào các nước Liên minh châu Âu (EU)”, ông Hòe nói
Còn ông Đỗ Xuân Mai thuộc Hiệp hội thủy sản An Giang (AFA) lo lắng, nếu Mỹ thông qua đạo luật Farm Bill 2008 đưa cá tra, ba sa của Việt Nam vào danh mục catfish thì cá tra, ba sa của Việt Nam ngoài việc áp dụng HACCP còn phải tuân theo một tiêu chuẩn khác về kỹ thuật chế biến cũng như quy trình sản xuất, chế độ kiểm tra chất lượng phải tương đương tiêu chuẩn hiện hành của Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Trong khi đó, để nhập khẩu vào các nước thuộc Liên minh châu Âu, doanh nghiệp trước hết phải tuân theo code (mã) quy định của liên minh này và một tiêu chí theo kiểu “luật bất thành văn” để được dễ dàng chấp nhập tại các siêu thị, hệ thống bán lẻ tại đây, đó là tiêu chuẩn Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGap).
Theo VASEP, trước đây, các nước thuộc Liên minh châu Âu đưa ra tiêu chuẩn nuôi thủy sản bền vững của một hệ thống bán lẻ của châu Âu là EurepGAP, sau đó, chuyển thành GlobalGap. Chính vì vậy, trong những năm qua, để dễ dàng xuất khẩu vào thị trường các nước nói trên, các doanh nghiệp trong ngành thủy sản tìm mọi cách để áp dụng tiêu chuẩn này.
Sau khi đưa cá tra, ba sa vào rồi lại quyết định rút ra khỏi danh mục đỏ trong cuốn cẩm nang tiêu dùng thủy sản 2010-2011 thì Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) đã đạt được bản thỏa thuận với Hội nghề cá Việt Nam, VASEP về việc áp dụng một tiêu chí cho ngành cá tra, ba sa. Đó là đến năm 2015, có khoảng 50% sản lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn của Hội đồng Quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC) và số còn lại sẽ theo các tiêu chuẩn khác như GlobalGap….
Rối như canh hẹ
Trao đổi với Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online qua điện thoại, ông Võ Văn Thanh, người có 5 héc ta nuôi cá tra, ba sa tại xã An Nhơn, Châu Thành, Đồng Tháp cho biết, bản thân ông cảm thấy rất bối rối vì chưa biết phải áp dụng GlobalGap hay SQF 1000 cho cá tra, ba sa thì nay có thêm tiêu chuẩn ASC, mà tiêu chuẩn nào cũng được quảng cáo là tốt nhất.
“Tôi không thể cùng một lúc áp dụng mấy tiêu chí này được vì số tiền để được cấp giấy chứng nhận là quá lớn, qua đó, đẩy chi phí giá thành sản xuất 1kg cá tra, ba sa lên quá cao”, ông Thanh cho biết.
Theo ông Đỗ Xuân Mai, hiện giá thành 1kg cá tra, ba sa trung bình vào khoảng 20.000 đồng/kg, trong đó, 70-80% chi phí thức ăn, 10% chi phí thuốc thú y, và việc áp dụng những tiêu chí GlobalGap, ASC, SQF... sẽ tốn khoảng gần 10% chi phí.
“Với mức chi phí đầu vào như kể trên thì về lâu dài ngành cá tra, ba sa khó phát triển bền vững như trong chiến lược phát triển cá tra, ba sa đến năm 2020 mà chúng ta đă từng đề ra”, ông Mai nghi ngại.
Theo ông Trương Đình Hòe, sau vụ việc WWF muốn Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn ASC của tổ chức này cho cá tra, ba sa càng khiến cho người nuôi như đứng trước mê cung các tiêu chuẩn vì tiêu chuẩn nào cũng được quảng cáo tốt.
Ông Hòe cho rằng, hiện các tiêu chuẩn cho con cá tra, ba sa quá nhiều và gây ra hiện tượng nhiễu thông tin, vì thế, cơ quan nhà nước phải có nhiệm vụ thông tin đầy đủ cho người nuôi để qua đó giúp họ có quyết định đúng đắn trong việc phải ứng dụng tiêu chuẩn nào. Và, cũng thể hiện được quan điểm của cơ quan quản lý, chứ không phải để các công ty, tổ chức phi chính phủ muốn con cá tra, ba sa phải áp dụng tiêu chuẩn nào cũng được.
“Tôi không biết sau những tiêu chuẩn GlobalGap, ASC, SQF thì sắp tới một công ty hay một tổ chức nào đó lại đưa ra một tiêu chí mới cho cá tra, ba sa và tạo sức ép với ngành thủy sản Việt Nam như WWF đã làm thì chúng ta sẽ phản ứng như thế nào?”, ông Mai thắc mắc.
Một số tiêu chuẩn đang được áp dụng cho ngành thủy sản SQF: Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm xác định các yêu cầu cần thiết trong hệ thống quản lý chất lượng nhằm nhận diện các mối nguy đối với an toàn thực phẩm và chất lượng cũng như thẩm tra / giám sát các phương thức kiểm soát. SQF bao gồm SQF 2000cm và SQF 1000cm. Hiện tại, chi phí để học tập toàn bộ quy trình tiêu chuẩn này vào khoảng 100 đô la Mỹ/người/lần học. Đó là chưa kể đến chi phí kiểm tra và chứng nhận. GlobalGap: Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chí toàn cầu. Số tiền để được chứng nhận là 7.500 đô la Mỹ/ lần/năm với tối tiểu 5 héc ta nuôi cá trở nên. Sau mỗi năm số tiền chứng nhận giảm 10%. HACCP: Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn. Đây là nguyên tắc được sử dụng trong hệ thống quản lý an toàn thực phẩm. HACCP được ứng dụng vào ngành thủy sản Việt Nam từ những năm 1990 do yêu cầu từ các quốc gia nhập khẩu thủy sản. Trên nền tảng của HACCP, Việt Nam đã xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia cho ngành thủy sản là TCVN 5603:2008 (Quy phạm thực hành về những nguyên tắc chung đối với vệ sinh thực phẩm). Đây là tiêu chuẩn áp dụng bắt buộc cho tất cả các khâu trong chuỗi thực phẩm, và có thể áp dụng cho cơ quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất, chế biến, cung cấp dịch vụ thực phẩm và cho cả người tiêu dùng. Tiêu chuẩn ASC của WWF. Đây là bộ tiêu chuẩn trong đó người nuôi cá, người chế biến, các cơ quan quản lý và một bên độc lập đứng ra chứng nhận dựa trên những nền tảng về bảo vệ loài thủy sản nuôi, những mối quan hệ về xã hội học, an sinh xã hội cũng như việc cung cấp nguồn dinh dưỡng hằng ngày cho người tiêu dùng. |