Cà phê được xem là một trong 4 nhóm hàng  xuất khẩu nông sản chủ lực. Chính phủ cũng đã có nhiều chương trình hỗ  trợ phát triển ngành này, song người dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh  doanh cà phê vẫn phải bươn chải để tồn tại.
Thiệt hại khi giá cà phê tăng cao
Vào thượng tuần tháng 7/2011, giá cà phê xô tại Tây Nguyên đã xấp xỉ 50.000 đồng/kg, nhưng người trồng cà phê vẫn không mấy phấn khởi, bởi hầu hết  không còn cà phê để bán. 
Tình trạng thiếu vốn phải “bán non”, hoặc thu hoạch xong phải bán ngay từ  đầu vụ với giá thấp, lúc giá lên không còn cà phê để bán từng diễn ra  trong nhiều năm qua. Bức bối, nhưng nhiều hộ gia đình trồng cà phê ở Tây Nguyên đành phải chấp nhận. 
Là địa phương có diện tích, sản lượng cà phê đứng thứ hai trong cả nước  (sau Đắc Lắc) với gần 140.000 ha cà phê, sản lượng bình quân đạt trên  300.000 tấn/năm, nhưng trên thực tế, hầu hết các hộ dân trồng cà phê tại Lâm Đồng đều phải bán tháo hoặc bán cà phê ngay từ đầu vụ, nên đến thời điểm này, lượng cà phê tích trữ trong dân là rất ít. Điều này cho thấy, có trên 85% lượng cà phê đã được các cơ sở đại lý, doanh nghiệp đóng  chân trên địa bàn thu mua với giá thấp ngay từ đầu vụ. 
Ông K’Brell, ngụ tại xã Tân Thượng, huyện Di Linh, vùng cà phê trọng điểm  của tỉnh Lâm Đồng cho biết, 100% hộ trong xã đều có thu nhập chính từ  cây cà phê. Trong đó gần 80% là người dân tộc thiểu số trồng cà phê,  nhưng trong số này chỉ còn vài hộ khá giả mới còn tích trữ cà phê, đa  phần đã bán hết ngay từ đầu vụ hoặc bán trước cho các đại lý theo hình  thức “bán non”.
Đắc Lắc - địa phương dẫn đầu trong cả nước về diện tích, sản lượng cà phê  hàng năm - cũng rơi vào cảnh tương tự. Ông Nguyễn Văn Sinh, Giám đốc Sở  Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Đắc Lắc cho biết, toàn tỉnh hiện có 190.000 ha trồng cây cà phê, sản lượng cà phê niên vụ vừa qua đạt trên 399.000 tấn, nhưng sản xuất - kinh doanh cà phê manh  mún, nhỏ lẻ. 
Ông Nguyễn Văn Sinh phân tích, trong số diện tích nói trên chỉ có khoảng  20.000 ha là vùng nguyên liệu của các doanh nghiệp (chiếm 15%), số còn  lại là của 180.500 nông hộ. Như vậy, diện tích trồng cà phê bình quân  theo hộ rất thấp (hơn 70% số hộ có diện tích dưới 1 ha), sản lượng cà  phê không cao. Do thu nhập chủ yếu từ cây cà phê, nên ngay khi thu hoạch xong, nông dân đành chấp nhận bán tháo để có tiền trang trải cho cuộc  sống hàng ngày, không có điều kiện để tích trữ cà phê chờ... lên giá. 
Thêm vào đó, với đặc tính của cây cà phê là ngay khi thu hoạch xong buộc  phải khẩn trương tập trung đầu tư chăm bón để cây chóng phục hồi, nên  người trồng cà phê phải đầu tư một nguồn chi phí đáng kể. Tuy nhiên, do  khó khăn về nguồn vốn, phần lớn nông hộ phải ứng trước tiền, phân bón,  thuốc bảo vệ thực vật từ các đại lý vật tư nông nghiệp (cũng là đại lý  thu mua cà phê tại địa phương) bằng các “khế ước” tới đầu vụ trả bằng cà phê hạt. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sản lượng cà phê tích trữ  trong dân không còn nhiều vào cuối vụ. 
Một số nông hộ khác được vay vốn của ngân hàng cũng phải trả nợ ngay từ đầu vụ bằng cà phê, dẫn đến tình trạng cung vượt cầu trong cùng thời điểm  đầu vụ, khiến cà phê mất giá. Đã vậy, do chi phí đầu vào như xăng dầu,  vật tư nông nghiệp, công lao động… tăng cao, tình trạng khô hạn, sâu  bệnh có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, cụ thể như nạn ve sầu tấn công cây cà phê nhưng chưa có thuốc đặc trị nên người trồng cà phê  ngày càng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc người nông dân làm ra sản  phẩm cà phê, nhưng tư thương là người quyết định giá, mọi mua bán cũng  đều thông thương lái, đại lý doanh nghiệp nên tình trạng ép giá vào đầu  vụ là không thể tránh khỏi. 
Với nhiều khó khăn bao vây, người trồng cà phê luôn bị thiệt đơn, thiệt kép, thu nhập vô cùng bấp bênh. 
Ai hưởng lợi từ chương trình tạm trữ? 
“Chương trình thu mua tạm trữ cà phê của Chính phủ là rất cần thiết, nhưng do  triển khai chậm nên trong niên vụ vừa qua, hầu hết nông dân không được  hưởng lợi từ chương trình này”- Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đắc Lắc  Nguyễn Văn Sinh khẳng định. 
Theo  ông Nguyễn Văn Sinh, trừ một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cà phê  có vùng nguyên liệu (chiếm khoảng 15%), các doanh nghiệp còn lại ở Đắc  Lắc đều thu mua thông qua tư thương, đại lý, chứ không mua trực tiếp  dân. Không chỉ vậy, vì diện tích manh mún, sản lượng nhỏ lẻ nên không  phải nông dân nào cũng đủ điều kiện chờ đến khi có chính sách mới mang  cà phê ra bán. Đó là chưa kể nhiều nông hộ có diện tích nhỏ, không có  vốn phải bán “cà phê non” - nông dân chốt giá với tư thương từ khi cà  phê chưa ra hoa để lấy phân bón, lấy tiền chi tiêu, khi thu hoạch xong  phải mang trả cho đại lý bằng cà phê, nên phần thiệt luôn thuộc về nông  dân. Điều này cho thấy, mối liên kết giữa nông dân với các đại lý thu  mua và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cà phê không chặt chẽ. Đây cũng  chính là điểm yếu nhất của ngành cà phê Việt Nam, chứ không phải của  riêng Đắc Lắc. 
 
Một số nông hộ nông dân trồng cà phê ở Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng cũng  cho biết, khi nghe Chính phủ có chủ trương hỗ trợ lãi suất 6% cho doanh  nghiệp thu mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê, nhiều người rất đồng tình,  nhưng chương trình vẫn chưa tới được nông dân, vì thời điểm doanh nghiệp triển khai thu mua thì nông dân không còn cà phê để bán. 
Ông Nguyễn Sỹ Hồ (ngụ 38 Nguyễn Kim, TP. Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc), có 2,5 ha cà phê kinh doanh tại huyện Krông Pút, bộc bạch: “Tôi có nghe về chương trình thu mua tạm trữ cà phê để bình ổn giá cho nông dân nhưng không  thể tiếp cận… Có lẽ, Nhà nước chỉ hỗ trợ cho một số doanh nghiệp trực  tiếp thu mua tạm trữ, chứ nông dân chúng tôi thì không được gì”. Còn ông K’Brêu, ngụ tại thôn Di Linh Thượng, xã Gung Ré, huyện Di Linh (Lâm  Đồng), người có tới 6 ha cà phê, cho biết: “Vụ mùa vừa qua, gia đình tôi thu được trên 23 tấn cà phê nhân, nhưng đến thời điểm doanh nghiệp được Chính phủ chỉ định thu mua tạm trữ, thì lượng cà phê còn lại trong nhà  không quá 5 tấn”. Cũng theo ông K’Brêu, vì chương trình triển khai quá  chậm nên trước đó, gia đình ông đã bán cà phê với giá 21 - 22 triệu  đồng/tấn. 
Dưới góc nhìn của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Hằng Thu, Giám đốc Công ty  TNHH Cà phê Thu Lợi (một trong những doanh nghiệp được UBND tỉnh Đắc  Nông giới thiệu tham gia Chương trình thu mua tạm trữ cà phê, nhưng xin  rút lui khỏi danh sách) nhận định: “Chương trình thu mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê của Chính phủ thực chất là để cứu ngành xuất khẩu cà phê.  Tất nhiên, người được hưởng lợi trực tiếp từ chương trình là các nhà  xuất khẩu, chứ không phải nông dân. Các đại lý, doanh nghiệp nhỏ và vừa  là những người làm trung gian đứng ra thu mua cà phê của nông dân cho  doanh nghiệp xuất khẩu cũng không được gì từ chương trình này”. 
Theo bà Thu, mục tiêu chính của doanh nghiệp là lợi nhuận, kinh doanh là  phải có lời, không có chuyện doanh nghiệp nào dám hy sinh lợi nhuận để  đứng ra gánh vác việc bình ổn giá cho nông dân và nhận rủi ro về mình,  trong khi theo quy định của Chính phủ, các doanh nghiệp phải thực hiện  việc mua cà phê tạm trữ theo cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm về  hiệu quả kinh doanh. Thêm vào đó, khi các đại lý, doanh nghiệp thu mua  cà phê của nông dân cũng đồng nghĩa với việc chốt giá tại thời điểm giao dịch, nên chỉ có doanh nghiệp nào được Nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay mới được lợi, chứ không phải là nông dân.
Theo Tân Phong
Báo Đầu tư