Gạo
Ước tháng 9 xuất khẩu 750 ngàn tấn, kim ngạch đạt 400 triệu đô la, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm ước đạt 6,2 triệu tấn với kim ngạch đạt 3,1 tỉ đô la, tăng 17,4% về lượng và 25,6% về giá trị.
Giá gạo xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm đạt 495 đô la/tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường Indonesia tiếp tục tăng trưởng mạnh, vượt qua Philippines trở thành thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam. Các thị trường khác như Lalaysia cũng tăng gấp hơn 2 lần và Trung Quốc tăng gấp hơn 3 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Philippines đã rời vị trí hàng đầu xuống thứ hai trong số các thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, do lượng xuất khẩu giảm 38,8% và kim ngạch chỉ bằng gần 50% cùng kỳ năm trước. Để bù vào sự sụt giảm của thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu sang các thị trường mới như Bangladesh, Senegal, Bờ Biển Ngà và Gana.
Cao su
Kim ngạch cao su xuất khẩu tháng 9 ước đạt 80 ngàn tấn và thu về 342 triệu đô la, nâng 9 tháng đầu năm nay lên 530.000 tấn với kim ngạch 2,3 tỉ đô la; tăng 3,3% về lượng và 61,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu cao su tăng trưởng về kim ngạch ở hầu hết các thị trường dù lượng xuất khẩu sang một số thị trường sụt giảm. Giá cao su xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm tăng 58,3% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 4.323 đô la/tấn.
Sắn và các sản phẩm từ sắn
Xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn tháng 9 ước đạt 180 ngàn tấn, trị giá 65 triệu đô la, đưa lượng xuất khẩu 9 tháng lên 2,1 triệu tấn và giá trị đạt 747 triệu đô la, tăng 54,7% về lượng và 92,6% về giá trị so với năm 2010. Giá xuất khẩu bình quân 8 tháng tăng 28,9% so với cùng kỳ năm trước, đạt 355,5 đô la/tấn.
Thị trường tiêu thụ chính của mặt hàng này là Trung Quốc, chiếm 92,7% tổng giá trị xuất khẩu.
Cà phê
Ước kim ngạch xuất khẩu cà phê tháng 9 đạt 40 ngàn tấn với trị giá 86 triệu đô la, đưa lượng xuất khẩu 9 tháng lên 994 ngàn tấn và giá trị đạt 2,2 tỉ đô la, tuy khối lượng tăng 8,9% nhưng tăng tới 66,5% về giá trị so với cùng kỳ.
Giá cà phê xuất khẩu tiếp tục tăng, trong khi đó nguồn cung nội địa lại giảm đẩy giá cà phê trong nước tăng mạnh. Giá xuất khẩu bình quân 8 tháng đang ở mức 2.208 đô la/tấn tăng 54,2% so với cùng kỳ năm trước.
Chè
Ước xuất khẩu tháng 9 đạt 15 ngàn tấn với kim ngạch đạt 25 triệu đô la, đưa tổng lượng chè xuất khẩu 9 tháng đầu năm ước đạt 99 ngàn tấn, kim ngạch đạt 153 triệu đô la, tăng nhẹ 1,2% về lượng và tăng 7,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu chè bình quân 8 tháng đầu năm đạt 1.520 đô la/tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2010.
Hạt điều
Xuất khẩu hạt điều nhân tháng 9 ước đạt 20 ngàn tấn với giá trị 190 triệu đô la, đưa tổng lượng xuất khẩu 9 tháng đầu năm ở mức 129 ngàn tấn với trị giá 1,1 tỉ đô la, mặc dù lượng giảm (-7,8%) nhưng kim ngạch vẫn tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Khối lượng xuất khẩu nhân điều giảm ở hầu hết các thị trường chỉ trừ Trung Quốc tăng 10,1%, Nga tăng 8,3% và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất tăng 24,8%. Giá xuất khẩu tăng mạnh, giá xuất khẩu trung bình 8 tháng đạt 8.127 đô la/tấn, tăng 48,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tiêu
Xuất khẩu hattháng 9 ước đạt 15 ngàn tấn, kim ngạch đạt 103 triệu đô la, đưa khối lượng tiêu xuất khẩu 9 tháng lên con số 115 ngàn tấn với kim gạch xuất khẩu 663 triệu đô la, tăng 17,4% về lượng và gấp hơn 2 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Lâm sản và đồ gỗ
Xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính và gỗ ước đạt 402 triệu trong tháng 9, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm ước đạt 3 tỉ đô la, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 2,9 tỉ đô la, tăng 18%; sản phẩm mây tre, cói thảm ước đạt 146 triệu đô la, giảm nhẹ 3,8% so với cùng kỳ năm trước.
Thuỷ sản
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 9 ước đạt 615 triệu đô la, đưa giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt 4,4 tỉ đô la, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu sang hầu hết các thị trường lớn tăng trưởng khá về giá trị, điển hình như Hoa Kỳ tăng 35,3%, Hàn Quốc 41,8%, Trung Quốc 54,3%, Italia 43,1%.
Theo TBKTSG lược ghi