Nguồn: Vietnambiz.vn
Nhập khẩu của tất cả các quốc gia trong nhóm thành viên nhập khẩu ICO và Mỹ trung bình giảm 2,8% xuống 10,58 triệu bao trong tháng 9/2020. Trong niên vụ 2019 - 2020, tổng nhập khẩu của các nước này giảm 4,5% xuống 129,98 triệu bao.
Nhập khẩu cà phê toàn cầu giảm trong niên vụ 2019 - 2020
Nhập khẩu từ tất cả các quốc gia trong nhóm Thành viên nhập khẩu ICO và Mỹ trung bình giảm 2,8% xuống 10,58 triệu bao trong tháng 9/2020. Trong niên vụ 2019 - 2020, tổng nhập khẩu của các nước này giảm 4,5% xuống 129,98 triệu bao.
Nhập khẩu của EU trong niên vụ 2019 - 2020 giảm 2,6% xuống 78,32 triệu bao. Nhập khẩu của Mỹ giảm 10% xuống 28,36 triệu bao.
Nhập khẩu của Nhật Bản giảm 10% xuống còn 7,34 triệu bao. Nhập khẩu của Liên bang Nga tăng 7,6% lên 6,22 triệu bao, trong khi của Vương quốc Anh giảm 13,4% xuống 5 triệu bao.
Nhập khẩu của Thụy Sĩ, Na Uy và Tunisia lần lượt tăng 9% lên 3,41 triệu bao, 0,4% lên 802.400 bao và 6,2% lên 527.000 bao.
Nhập khẩu cà phê nhân của nhóm các Thành viên ICO và Mỹ giảm 5,4% xuống 95,98 triệu bao trong niên vụ 2019 - 2020 trong khi nhập khẩu cà phê rang xay giảm 3,7% xuống 19,6 triệu bao. Tuy nhiên, nhập khẩu cà phê hòa tan tăng 1% lên 14,41 triệu bao.
Mặc dù nhập khẩu cà phê rang xay giảm đối với hầu hết các Thành viên ICO và Mỹ, nhập khẩu cà phê rang của Thụy Sĩ tăng 9,6% lên 257.000 bao với Ý, Đức và Hà Lan là các nước cung cấp chính.
Ngược lại, nhập khẩu cà phê hòa tan của Mỹ và tất cả các Thành viên ICO tăng ngoại trừ EU và Vương quốc Anh. Nhập khẩu cà phê hòa tan của EU giảm 2,2% xuống 7,73 triệu bao trong khi của Anh giảm 7,4% xuống 1,14 triệu bao.
Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 11/2020
Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 11/2020 đạt 10,15 triệu bao, tăng 5,7% so với tháng 11/2019. Xuất khẩu robusta đạt tổng cộng 3,31 triệu bao, thấp hơn 10,7% so với mức kỷ lục 3,7 triệu bao vào tháng 11/2019.
Xuất khẩu arabica cũng tăng 16% lên 6,84 triệu bao trong đó xuất khẩu cà phê arabica của Brazil có mức tăng lớn nhất, tăng 29,9% lên 4,21 triệu bao nhờ Brazil bước vào năm được mùa trong chu kì sản xuất hai năm một lần.
Xuất khẩu cà phê arabica của Colombia tăng 3,6% lên 1,32 triệu bao mặc dù sản lượng trong tháng 11/2020 thấp hơn so với tháng 11/2019. Tuy nhiên, xuất khẩu của các quốc gia khác ngoài Colombia và Brazil giảm 5,1% xuống 1,3 triệu bao do xuất khẩu từ Honduras giảm 48% xuống 55.500 bao.
Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong hai tháng đầu niên vụ 2020 - 2021
Trong hai tháng đầu của niên vụ 2020 - 2021, tổng lượng xuất khẩu cao hơn 6,5%, đạt 20,2 triệu bao, so với 18,97 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước.
Xuất khẩu của tất cả các nhóm cà phê đều giảm trừ xuất khẩu arabica của Brazil, tăng 23,1% lên 8,31 triệu bao. Xuất khẩu cà phê arabica của Colombia giảm 4,5% xuống 2,48 triệu bao, các quốc gia khác giảm 5% xuống 2,75 triệu bao và nhóm robusta giảm 1% xuống 6,66 triệu bao.
Xuất khẩu của Brazil tăng chủ yếu do xuất khẩu cà phê arabica xanh đạt 12,56 triệu bao, cao hơn 11,9% so với hai tháng đầu niên vụ 2019 - 2020. Xuất khẩu robusta xanh tăng 1,1% lên 5,79 triệu bao.
Ngược lại, xuất khẩu cà phê rang xay từ các nước sản xuất giảm 5,5% xuống 103.800 bao, và cà phê hòa tan giảm 8,2% xuống 1,75 triệu bao.
Tái xuất khẩu cà phê toàn cầu niên vụ 2019 - 2020
Tái xuất khẩu của các Thành viên nhập khẩu ICO và Mỹ, tăng 8,3% lên 4,31 triệu bao vào tháng 9/2020. Trong niên vụ 2019 - 2020, tổng lượng tái xuất của các nước này tăng 0,4% lên 46,93 triệu bao.
Lượng cà phê tái xuất của EU trong niên vụ 2019 - 2020 giảm 0,3% xuống 38,56 triệu bao, trong khi của Mỹ giảm 6% xuống 2,66 triệu bao. Tái xuất từ Vương quốc Anh giảm 24,6% xuống 1,45 triệu bao.
Tuy nhiên, tái xuất khẩu cà phê của các nước thành viên khác tăng. Lượng tái xuất của Nhật Bản tăng hơn gấp đôi lên 309.700 bao do lượng tái xuất cà phê hòa tan tăng mạnh, đặc biệt là sang Liên bang Nga, Nhật Bản và Trung Quốc.
Tái xuất khẩu từ Na Uy tăng 46,3% lên 20.700 bao, chủ yếu sang EU, đặc biệt là Đan Mạch, Thụy Điển và Vương quốc Anh. Tái xuất khẩu của Liên bang Nga tăng 45,7% lên 1,59 triệu bao do lượng tái xuất cà phê rang xay và hòa tan đều tăng.
Tái xuất khẩu từ Thụy Sỹ tăng 14% lên 2,34 triệu bao với phần lớn tăng trưởng từ việc tái xuất khẩu cà phê rang sang Pháp, Mỹ và Đức cũng như các thị trường mới hơn như Hàn Quốc và Indonesia. Tái xuất khẩu của Tunisia tăng 6,1% lên 157 bao.
Trong niên vụ cà phê 2019 - 2020, lượng cà phê rang tái xuất khẩu từ các Thành viên nhập khẩu ICO và Mỹ giảm 0,1% xuống 22,54 triệu bao. Tái xuất khẩu cà phê rang của EU giảm 1,2% xuống 18,35 triệu bao, của Mỹ giảm 3,9% xuống 1,61 triệu bao.
Tuy nhiên, tái xuất khẩu cà phê rang của Thụy Sĩ đã tăng 14,8% lên 1,82 triệu bao. Tái xuất khẩu cà phê hòa tan tăng 0,7% lên 11,93 triệu bao.
Xuất khẩu tái hòa tan từ EU tăng 0,6% lên 8,5 triệu bao và từ Liên bang Nga tăng 35,5% lên 1,28 triệu bao. Tuy nhiên, lượng cà phê tái xuất từ Vương quốc Anh giảm 32,4% xuống còn 813.000 bao.