Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Tình hình kinh tế xã hội năm 2006 và nhiệm vụ năm 2007
14 | 08 | 2007
Toàn văn Báo cáo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XI.

Ngày 17 tháng 10 năm 2006

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng bào, đồng chí,

Theo quy định, Chính phủ đã gửi trước tới các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo về kế hoạch kinh tế - xã hội và Báo cáo về ngân sách nhà nước năm 2006. Chính phủ cũng đã gửi tới các vị đại biểu Quốc hội 23 báo cáo chuyên đề khác. Các báo cáo này đã đề cập toàn diện và cụ thể tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.

Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo trước Quốc hội và đồng bào cả nước những nét chính của tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và nhiệm vụ, giải pháp lớn cho năm 2007.

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2006

Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006, cùng với nhiều thuận lợi rất cơ bản, những khó khăn thách thức cũng rất lớn, như thiên tai gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trong cả nước; dịch cúm gia cầm và nhiều dịch bệnh khác ở người, gia súc, cây trồng; những biến động bất thường về giá cả, nhất là giá xăng dầu và những rào cản mới trong thương mại quốc tế ... Bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã khắc phục khó khăn trở ngại, đưa Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội vào cuộc sống, tình hình kinh tế, xã hội cả nước tiếp tục chuyển biến tích cực.

Qua tình hình và số liệu 9 tháng đầu năm, đã có đủ căn cứ để dự báo kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội được Quốc hội đề ra trong Nghị quyết kỳ họp lần thứ 8 về nhiệm vụ cả năm 2006 như sau:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước tăng 8,2% (kế hoạch là 8%). GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD (năm 2005 đạt trên 10 triệu đồng, tương đương 640 USD);

Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 - 3,5% (kế hoạch là 3,8%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,4 - 10,5% (kế hoạch là 10,2%); ngành dịch vụ tăng 8,2 - 8,3% (kế hoạch là 8%);

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20% (kế hoạch là 16,4%);

Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng 41% GDP (kế hoạch là 38,6%);

Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 7 - 7,5% (kế hoạch là thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế);

Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động (kế hoạch là 1,6 triệu);

Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 19% (kế hoạch là 20%);

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm dưới 24% (kế hoạch là 24%);

Mức giảm tỷ lệ sinh 0,3%o (kế hoạch là 0,4%o);

Tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 258 nghìn tỷ đồng (dự toán là 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 19%; tổng chi ngân sách nhà nước đạt trên 315 nghìn tỷ đồng (dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng), tăng 20%; bội chi ngân sách nhà nước trong mức 5% GDP (dự toán là 5%);

Trong 8 chỉ tiêu còn lại, có 6 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, gồm chỉ tiêu về đào tạo nghề dài hạn, số lượng địa phương hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, tuyển mới đại học cao đẳng, tỷ lệ che phủ rừng, cung cấp nước sạch cho đô thị và tỷ lệ xử lý số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Còn 2 chỉ tiêu đạt thấp so với kế hoạch, là tuyển mới trung học chuyên nghiệp và tỷ lệ dân số ở nông thôn được cung cấp nước sạch [1].

Nhìn tổng quát, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra. Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các cân đối lớn được bảo đảm và ổn định được kinh tế vĩ mô. Các lĩnh vực về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, dạy nghề, y tế, thể dục thể thao và nhiều lĩnh vực xã hội khác cũng có chuyển biến tích cực.

Một số lĩnh vực đạt kết quả nổi bật, như tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt khoảng 41% GDP, là mức cao nhất trong nhiều năm qua, trong đó nguồn vốn của doanh nghiệp dân doanh chiếm gần một phần ba; đây là một cố gắng rất lớn trong việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và là yếu tố rất quyết định cho tăng trưởng GDP. Sản lượng lương thực vẫn đạt khoảng 40 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời duy trì xuất khẩu gạo năm thứ 2 liên tiếp đạt trên 5 triệu tấn và đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2006. Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng trưởng khá cao, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng khá so với cùng kỳ năm trước[2]; các công trình trọng điểm quốc gia và các dự án đầu tư nhóm A được tập trung chỉ đạo, cơ bản kiểm soát được tiến độ. Xuất khẩu hàng hoá tăng cả về số lượng, mặt hàng và tổng kim ngạch; thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng; nhập siêu giảm nhiều so với các năm trước. Lĩnh vực dịch vụ đạt mức tăng khá cao.

Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tích cực; năm 2006 cổ phần hóa 420 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa lên 3.480, hầu hết là hoạt động có hiệu quả và đã có 81 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán; các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước tiếp tục được kiện toàn, sản xuất kinh doanh đạt kết quả tốt hơn. Đã có hơn 41.000 doanh nghiệp dân doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh, thu hút một nguồn lực lớn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt kết quả khả quan, với tổng số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt khoảng 6,6 tỷ USD và số vốn thực hiện khoảng 3,7 tỷ USD, tăng trên 19% so với năm 2005.

Các hoạt động khoa học - công nghệ trọng điểm được đẩy mạnh. Cơ chế quản lý tiếp tục được đổi mới theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học - công nghệ và thực hiện xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực cho công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ. Nhiều doanh nghiệp chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học. Hình thức chợ và sàn giao dịch thiết bị công nghệ được tổ chức ở một số địa phương, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã có những kết quả thiết thực.

Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai tích cực. Công tác tổ chức thi tuyển ở các cấp có tiến bộ. Quy mô đào tạo bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng. Cơ sở vật chất nhà trường được củng cố, tăng cường; gần 90% địa phương đã hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp, cải thiện điều kiện dạy và học, tạo diện mạo mới cho các cơ sở giáo dục. Các trung tâm học tập cộng đồng tiếp tục được mở rộng. Cuộc vận động chống tiêu cực trong ngành giáo dục đã có một số chuyển biến, được sự đồng thuận của xã hội.

Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tốt hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Các xã, các hộ sau khi thoát nghèo được chú ý hỗ trợ các điều kiện để phát triển sản xuất.

Sự chỉ đạo chủ động, quyết liệt, sâu sát của trung ương và các địa phương, cùng với sự nỗ lực của nhân dân, của các lực lượng và cơ quan chức năng, chúng ta đã khống chế, ngăn chặn được sự bùng phát, lan rộng của dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc; đặc biệt đã hạn chế được tối đa sự tổn thất về người và tài sản trong cơn bão số 6, cơn bão mạnh nhất trong nhiều năm qua. Trong thiên tai bão lũ đã có nhiều hành động, nhiều tấm gương tiêu biểu trong phòng chống và cứu trợ, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn.

Mức lương tối thiểu chung và lương hưu, trợ cấp xã hội đã được điều chỉnh tăng lên từ ngày 01 tháng 10 năm 2006, sớm hơn so với lộ trình cải cách tiền lương, đồng thời với việc thực hiện các biện pháp để kiểm soát và bình ổn giá cả.

Qua tổng kết giai đoạn I (2001 - 2005) thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001 - 2010 cho thấy, tuy còn không ít bất cập, yếu kém của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, nhưng sau 5 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính, hệ thống thể chế tiếp tục được hoàn thiện, bộ máy hành chính các cấp đã có bước chuyển biến, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Việc đơn giản hoá, công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính đã tạo thuận lợi nhiều hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh. Đã tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng chống tham nhũng; ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III của Đảng, trong đó tập trung vào việc rà soát sửa đổi, bổ sung và xây dựng đồng bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm chủ động ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; ban hành quy định về xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức khi để xảy ra tham nhũng và quy định cụ thể về chống lãng phí, thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách; chỉ đạo xử lý kiên quyết, công khai, đúng pháp luật các vụ việc tham nhũng, nhất là một số vụ việc tham nhũng lớn, gây bức xúc trong dư luận. Những hoạt động thiết thực của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội X đến nay đã tạo thêm lòng tin trong xã hội vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và sự nghiêm minh của pháp luật.

Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được chỉ đạo tích cực hơn; tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự tiếp tục được kiềm chế; kịp thời phát hiện và làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chính trị xã hội ổn định, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả. Một số hoạt động đối ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước được triển khai và đã nâng thêm vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sau 11 năm kiên trì đàm phán, chúng ta đã kết thúc đàm phán cả song phương và đa phương để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo phương án đề ra. Đến nay đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị và thực hiện thành công nhiều hoạt động quan trọng để tiến đến tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.

Những thành tựu đạt được trong năm 2006 bắt nguồn từ thế và lực của đất nước, được tạo ra qua những năm đổi mới, nhất là kết quả của 5 năm 2001 - 2005; sự nỗ lực và hoạt động có hiệu quả của cả hệ thống chính trị và những cố gắng phấn đấu vượt bậc để vượt qua thách thức khó khăn của các tầng lớp nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Tốc độ tăng GDP tuy vượt kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng của sự tăng trưởng, nhất là sức cạnh tranh của nền kinh tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều yếu kém. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực của nhà nước và xã hội còn kém hiệu quả. Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ - cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ nhân dân vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều trở ngại. Đời sống nhân dân nhiều nơi ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí tuy có được những kết quả, nhưng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Tai nạn giao thông vẫn ở mức cao.

Cần nhấn mạnh rằng, những yếu kém, bất cập nói trên không phải là những vấn đề mới, nhưng việc khắc phục còn rất chậm, chưa tạo được sự chuyển biến rõ nét, đòi hỏi phải có những nỗ lực cao hơn, với những giải pháp thiết thực hơn để vượt lên những khó khăn, thách thức này.

Phần thứ hai

NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP LỚN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2007

Theo nhiều dự báo, kinh tế thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng cao và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hoá thương mại sẽ được đẩy nhanh; việc đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn sẽ tiếp tục được mở rộng. Tuy nhiên, tình hình thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp, khó lường; sự biến động bất lợi về giá cả và sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế sẽ ngày càng gay gắt.

Ở trong nước, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước tiếp tục được phát huy, sự ổn định chính trị xã hội cùng với những thành tựu đã đạt được trên các mặt sẽ tạo thời cơ, thuận lợi lớn cho việc thu hút các nguồn lực cả trong và ngoài nước để đầu tư phát triển; đồng thời với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng khẩn trương, sâu rộng và nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì những yếu kém, bất cập của nền kinh tế nước ta sẽ là những khó khăn, thách thức lớn.

Thực trạng trên đòi hỏi phải nỗ lực phấn đấu quyết liệt hơn nữa để triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà Đại hội X của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, trong đó cần tập trung sức cao nhất để bảo đảm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao và bền vững; phát triển mạnh nông nghiệp và nông thôn, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc về văn hoá, xã hội, môi trường; đẩy mạnh cải cách hành chính và đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; tạo cho được những chuyển biến thiết thực trong năm 2007.

I. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu

1. Các chỉ tiêu kinh tế

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 8,2 - 8,5%[3]; dự kiến đạt trên 1.130 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 70 tỷ USD; GDP bình quân đầu người khoảng 820 USD.

Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3,5 - 3,8%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,5 - 10,7%; ngành dịch vụ tăng 8 - 8,5%;

Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực nông nghiệp khoảng 19,5%, công nghiệp và xây dựng khoảng 42% và dịch vụ khoảng 38,5%;

Tổng kim ngạch xuất khẩu 45,2 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm 2006; nhập khẩu 49,1 tỷ USD, tăng 15,5%;

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 452 nghìn tỷ đồng, bằng 40% GDP;

Tổng thu ngân sách nhà nước trên 274 nghìn tỷ đồng, bằng 24,2% GDP và tăng 15,5%; tổng chi ngân sách nhà nước 347 nghìn tỷ đồng, tăng 17,7% so với dự toán năm 2006;

Bội chi ngân sách nhà nước bằng 5% GDP;

Tốc độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.

2. Các chỉ tiêu xã hội

Nâng số tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở lên 40 tỉnh. Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng 10%; trung học chuyên nghiệp tăng 15%; đào tạo nghề dài hạn tăng 15,4%;

Mức giảm tỷ lệ sinh 0,3‰; quy mô dân số 85,3 triệu người;

Tạo việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động (trong đó xuất khẩu lao động 8 vạn);

Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 17%;

Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới 22,3%, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi xuống 17,5%o, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống 29%o.

3. Các chỉ tiêu môi trường

Tỷ lệ dân số được cung cấp nước sạch ở nông thôn đạt 67,2%; ở đô thị đạt 80%;

Tỷ lệ khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 31%; tỷ lệ chất thải rắn được thu gom đạt 75%; tỷ lệ xử lý chất thải nguy hại đạt 48%; tỷ lệ xử lý chất thải y tế đạt 79%;

Tỷ lệ che phủ rừng đến cuối năm 2007 khoảng 39%.

II. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu quan trọng hàng đầu và đã được triển khai thực hiện trong suốt quá trình đổi mới của đất nước. Năm 2007, nhiệm vụ này càng trở nên cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh và bền vững trong quá trình hội nhập, nhất là khi nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường. Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường, nhất là thị trường tài chính. Chú trọng liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn.

Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt với sự giám sát, điều tiết của nhà nước theo nguyên tắc thị trường; bảo đảm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng, tập trung vốn cho đầu tư phát triển.

Khẩn trương kiện toàn các ngân hàng thương mại, nâng cao năng lực quản trị, tăng nhanh vốn pháp định, đổi mới công nghệ, phát triển mạnh hệ thống chi nhánh và các dịch vụ, tiện ích ngân hàng. Bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện thuận lợi để thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư, các định chế tài chính phát triển lành mạnh.

Hoàn thiện các quy định pháp luật, tháo gỡ vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh việc hình thành và hoạt động của thị trường bất động sản phù hợp với pháp luật về đất đai, nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản, làm cho quyền sử dụng đất được chuyển thành hàng hoá thuận lợi và trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển đất nước. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn thị trường lao động và thị trường khoa học, công nghệ. Nhân rộng và nâng cao hiệu quả của loại hình chợ, sàn giao dịch thiết bị công nghệ, xem đây là một kênh quan trọng cho việc cung ứng, đổi mới thiết bị công nghệ.

Khẩn trương xây dựng các chính sách và thực hiện lộ trình hợp lý của việc điều hành giá cả đối với những hàng hoá thiết yếu theo nguyên tắc của thị trường, có sự can thiệp thích hợp của nhà nước, làm giảm tối đa những sai lệch và bất hợp lý trong hạch toán sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực thích nghi của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, giảm gánh nặng bù lỗ của ngân sách nhà nước, đồng thời phải kiểm soát được thị trường, bảo đảm cung cầu, không để đầu cơ gây đột biến về giá cả. Năm 2007, xi măng, sắt thép, phân bón kinh doanh theo giá thị trường và sẽ không bù lỗ giá xăng, giảm mạnh bù lỗ giá dầu; hạn chế xuất khẩu và không bù lỗ giá than (trừ giá than cung cấp cho phát điện); triển khai thực hiện lộ trình điều chỉnh phù hợp về giá bán điện, không bao cấp tràn lan.

Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý của cơ quan hành chính Nhà nước, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh ổn định và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp.

Tập trung làm tốt việc quy hoạch và tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực và có nhiều chủ sở hữu, tạo sức mạnh cho nền kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Thu hút các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài đến đầu tư kinh doanh, nhất là hàng hoá và dịch vụ công nghệ cao tại Việt Nam.

Khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp cổ phần và các loại hình kinh tế dân doanh, tạo mọi thuận lợi để các doanh nghiệp này kinh doanh có hiệu quả, được tiếp cận bình đẳng về nhu cầu sử dụng đất và các nguồn vốn. Bổ sung chính sách để thúc đẩy phát triển nhanh các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự nguyện.

Triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là về đào tạo cán bộ quản trị và đào tạo nghề cho lao động; nâng cao chất lượng công tác dự báo và cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, tỷ giá cho doanh nghiệp; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, không hình sự hoá các quan hệ kinh tế. Tôn vinh các doanh nhân có tài năng, thành đạt và có tâm huyết, trách nhiệm với đất nước.

Rà soát lại các loại giấy phép, các quy định về lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, chứng nhận đầu tư, giao đất, thẩm định và phê duyệt dự án, cấp phép xây dựng, nộp thuế, xuất nhập khẩu... để loại bỏ những giấy phép, những quy định phiền hà, gây chậm trễ, ách tắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, năm 2007 phải có bước chuyển mạnh trong lĩnh vực này.

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước 5 năm 2006 - 2010, trọng tâm là cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp, các tổng công ty nhà nước. Trong năm 2007, cổ phần hoá khoảng 600 doanh nghiệp nhà nước, gồm một số tổng công ty, ngân hàng thương mại, doanh nghiệp hoạt động công ích. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong cổ phần hoá doanh nghiệp; gắn việc cổ phần hoá với phát triển thị trường chứng khoán, năm 2007 đưa khoảng 100 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sơ kết việc thí điểm, hoàn thiện cơ chế, chuyển các tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế đi vào hoạt động có hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Thực hiện kiểm toán tất cả các tập đoàn và các tổng công ty nhà nước.Tiếp tục lành mạnh hoá tài chính, lao động và kiên quyết sắp xếp lại những doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh không hiệu quả.

Điều chỉnh các quy định để giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh. Xác định rõ hơn chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và của đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Đưa nhanh Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước vào hoạt động để tiến tới việc các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố không đảm nhiệm chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.

Tiếp tục đổi mới chính sách đầu tư và công tác quy hoạch, kế hoạch; khuyến khích thu hút mạnh đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư

Bổ sung các chính sách thích hợp, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử để thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước. Tiếp tục hoàn thiện các quy định trong quản lý đầu tư xây dựng theo hướng phân cấp, giao quyền và trách nhiệm đầy đủ cho chủ đầu tư và người quyết định đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước; khắc phục nhanh tình trạng dự án đầu tư bị kéo dài và đầu tư dàn trải, lãng phí. Tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, nhất là về thẩm định phê duyệt dự án, giao đất và giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ đầu tư.

Nâng cao chất lượng xây dựng và hiệu lực quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Các chỉ tiêu kế hoạch phải khả thi, phù hợp với cơ chế thị trường và bảo đảm sự tăng trưởng bền vững. Gắn kết chặt chẽ các mục tiêu chiến lược, quy hoạch với các nhiệm vụ giải pháp thực hiện của kế hoạch. Phải làm cho các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thực sự là căn cứ cho việc đầu tư phát triển bền vững, làm cơ sở cho việc điều hành, giám sát và đánh giá hiệu quả của các cấp chính quyền. Nâng cao tính khoa học, minh bạch, công khai để chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Khắc phục tình trạng phát triển không có quy hoạch, sai quy hoạch hoặc quy hoạch không khả thi.

Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với cơ cấu ngành nghề phù hợp. Khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm, ngành hàng đang có lợi thế về thị trường và sức cạnh tranh. Áp dụng mọi biện pháp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong các sản phẩm. Nâng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường.

Tập trung chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ tiến độ các công trình trọng điểm quốc gia và các dự án đầu tư nhóm A. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế đầu tư phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất, xi măng, khai thác bô-xít và sản xuất alumin, sản xuất bột giấy gắn với trồng rừng và các sản phẩm cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ cao...

Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp ở từng địa phương và trên cả nước, ưu tiên bố trí ngân sách và khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.

Khẩn trương chuẩn bị đầu tư các dự án nâng cấp đường bộ, đường sắt Bắc - Nam và đường bộ, đường sắt nối với các nước láng giềng, xem đây là những dự án đầu tư hạ tầng đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của đất nước; đồng thời lựa chọn đầu tư một số dự án cấp bách khác của giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi thiết yếu. Thông qua chiến lược năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển điện năng đến năm 2020, Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư để đáp ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển; thực hiện cơ chế thị trường trong đầu tư và kinh doanh điện. Triển khai đồng bộ các giải pháp để triệt để tiết kiệm năng lượng.

Nâng cao chất lượng xây dựng và quản lý quy hoạch đô thị; chú trọng đầu tư xây dựng và cải tạo mạng lưới giao thông nội đô, hệ thống cấp nước, thoát nước và xử lý chất thải; bổ sung và quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và các quy chế về phát triển đô thị, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Khắc phục tình trạng xây dựng trái phép, nạn ùn tắc giao thông và úng ngập ở các thành phố. Có biện pháp cụ thể huy động các nguồn lực của toàn xã hội để xoá nhà ở tạm bợ cho người nghèo và phát triển nhanh quỹ nhà đáp ứng nhu cầu về nhà ở của nhân dân; chú trọng xây dựng ký túc xá cho sinh viên và tạo quỹ nhà để cho thuê, thuê mua đối với các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức có thu nhập thấp và người lao động tại các khu công nghiệp.

Tạo mọi thuận lợi để phát triển mạnh các ngành dịch vụ có tiềm năng và sức cạnh tranh. Phân tích và có biện pháp cụ thể để khắc phục sự sụt giảm khách du lịch; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch; đầu tư tôn tạo các điểm du lịch đặc trưng, những sản phẩm du lịch độc đáo; tích cực mở thị trường và đẩy mạnh công tác quảng bá du lịch Việt Nam. Khẩn trương hiện đại hoá và phát triển nhanh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Khuyến khích đầu tư tăng năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng trong dịch vụ viễn thông. Nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ vận tải trong nước; tăng sức cạnh tranh của vận tải đường biển và hàng không quốc tế. Khuyến khích phát triển các dịch vụ mới, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống ở nông thôn. Phát triển các dịch vụ pháp luật, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội.

Kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Tận dụng các cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường, phát huy lợi thế, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và sự ổn định của chính sách, phù hợp với lợi ích quốc gia và các thông lệ quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài với nhiều hình thức đa dạng, thích hợp để góp phần thực hiện chiến lược phát triển của đất nước.

Khẩn trương hoàn tất các công việc còn lại để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới; ban hành chương trình hành động quốc gia để chủ động thực hiện đồng bộ có hiệu quả các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư cùng có lợi với các nước, các vùng lãnh thổ; tích cực triển khai thực hiện các chương trình hợp tác với ASEAN, chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Kông, xây dựng các tuyến đường xuyên Á và các tuyến đường bộ, đường sắt nối với các nước láng giềng để đẩy mạnh hợp tác phát triển cùng có lợi.

Bổ sung chính sách, tạo môi trường thuận lợi hơn nữa để thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI); mở rộng lĩnh vực, địa bàn và các hình thức thu hút đầu tư, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả của nguồn vốn đầu tư trực tiếp; hoàn thiện chính sách để thu hút mạnh vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài, gắn với việc bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Cập nhật quy hoạch và tranh thủ tối đa nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), tập trung vào đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng; đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng, kiểm soát chặt chẽ, không để thất thoát lãng phí và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Thu hút mạnh kiều hối vào đầu tư phát triển.

Cùng với đẩy mạnh xuất khẩu, phấn đấu tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng công nghệ; hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. Bằng các biện pháp ổn định và mở rộng nhanh thị trường xuất khẩu, phấn đấu đạt mức tăng cao về kim ngạch xuất khẩu. Chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu.

2. Tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân

Khẩn trương hoàn thiện các quy hoạch về phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tăng đầu tư từ ngân sách và đa dạng hoá các nguồn vốn để đầu tư phát triển mạnh kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống thủy lợi (hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển, kiên cố hóa kênh mư­ơng) và nước sạch cho sinh hoạt; tiếp tục đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống thông tin, dự báo khí tượng thuỷ văn, tìm kiếm cứu nạn, chủ động phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai.

Phát huy lợi thế về trồng lúa của các vùng đồng bằng, nhất là đồng bằng sông Cửu Long; khuyến khích chuyển đổi, sử dụng các giống lúa mới có năng suất, chất lượng và khả năng kháng bệnh cao; áp dụng các biện pháp để hạ giá thành. Thâm canh đối với các cây công nghiệp, chú trọng đầu tư chế biến để tăng thêm giá trị. Mở rộng diện tích trồng cây cao su, cây điều trên đất còn hoang hoá, đất nương rẫy kém hiệu qủa. Đầu tư­ phát triển các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung theo công nghệ sạch, chất lượng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm, gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản.

Tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi. Áp dụng các biện pháp đồng bộ để phòng chống dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc, phấn đấu không để dịch bệnh tái phát, lan rộng. Khôi phục và phát triển nhanh chăn nuôi theo hướng tập trung, hiệu quả, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng từ 8 - 10%/năm.

Đầu tư xây dựng hệ thống khoa học công nghệ nông nghiệp, thuỷ sản mạnh và đồng bộ, làm cơ sở để tạo sự phát triển nhanh trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản cả về năng suất - chất lượng - hiệu quả. Trước hết cần tập trung vào nghiên cứu chọn tạo giống có chất lượng; hoàn thiện kỹ thuật thâm canh cây trồng và vật nuôi, đảm bảo chất lư­ợng thực phẩm và giảm giá thành; nghiên cứu và phát triển công nghệ sau thu hoạch; phổ biến và ứng dụng công nghệ, thiết bị bảo quản, đóng gói các loại nông sản, nhất là các sản phẩm tươi sống.

Triển khai thực hiện tốt các quy định mới về đất đai; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất trồng lúa sang mục đích khác, chú trọng giải quyết đất ở, nhà ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Đẩy nhanh việc sắp xếp lại nông, lâm trường, gắn với việc giao rừng và đất lâm nghiệp; điều chỉnh chính sách khuyến khích nhân dân tham gia bảo vệ rừng tự nhiên và phát triển rừng kinh tế. Hoàn thành việc rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng, gắn với việc thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng. Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển trồng rừng; cải tạo, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, đáp ứng nhu cầu gỗ trong nước và người dân miền núi tăng được thu nhập từ rừng. Xử lý kiên quyết và có hiệu quả nạn phá rừng và chống người thi hành công vụ bảo vệ rừng.

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản để tạo thị trư­ờng tiêu thụ ổn định cho người sản xuất và tăng nhanh giá trị sản phẩm; tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu chính, như­ gạo, cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, rau quả, thịt, giữ mức tăng trưởng chế biến không thấp hơn 14%/năm. Khuyến khích khôi phục và phát triển các làng nghề. Xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của một số ngành hàng nông, lâm sản chủ yếu.

Bổ sung quy hoạch, tăng đầu tư cho thuỷ lợi phục vụ phát triển nuôi trồng thuỷ sản; tổ chức lại tàu thuyền để vừa đánh bắt hải sản có hiệu quả, vừa bảo đảm an toàn trên biển; khuyến khích đầu tư chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, gắn với phát triển nuôi trồng thuỷ sản để ổn định sản xuất và cùng có lợi.

Triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển kinh tế trên cơ sở tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, đa dạng hoá các nguồn vốn, phát huy nguồn lực của dân và của cộng đồng. Thực hiện thí điểm mô hình xây dựng nông thôn mới trên các vùng của cả nước để rút kinh nghiệm nhân rộng.

Ban hành chính sách khuyến khích, thu hút mạnh các doanh nghiệp, các ngân hàng và tổ chức tín dụng cung ứng vốn và đầu tư phát triển sản xuất ở địa bàn nông thôn. Gắn việc hình thành các khu dân cư đô thị mới ở nông thôn với xây dựng nếp sống văn hoá và bài trừ các tệ nạn xã hội.

Thực hiện các biện pháp đặc biệt để hỗ trợ các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng đầu tư để hoàn thành các cụm tuyến dân cư vùng ngập lũ. Tiếp tục phát triển hệ thống điện, giao thông nông thôn để các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển tới thôn, bản, ấp và đạt mục tiêu đến năm 2010 trên 90% hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt.

Bổ sung chính sách để khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ và các loại hình kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp, nông thôn. Phát triển hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, dịch vụ thủy nông, thú y, bảo vệ thực vật, thông tin liên lạc, văn hóa, xã hội, cung ứng vật tư­, tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện thuận lợi để nông dân góp quyền sử dụng đất và lao động của mình với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, cải thiện đời sống.

Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn; tiếp tục hỗ trợ thích hợp cho người dân ở những nơi Nhà nước đã thu hồi đất để sớm ổn định cuộc sống; kiểm tra chặt chẽ các dự án tái định cư bảo đảm cuộc sống của dân khi quyết định thu hồi đất. Nhà nước tiếp tục đầu tư nhiều hơn và phát huy khả năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Giải quyết ổn định lương thực cho các hộ đồng bào nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa.

3. Đẩy mạnh phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc về văn hoá, xã hội, môi trường

Tập trung chỉ đạo đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo theo các đề án đã được phê duyệt. Hướng mạnh vào việc đào tạo phục vụ thiết thực nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên gắn với đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu việc kết hợp kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học với thi tuyển sinh đại học để giảm áp lực thi cử cho học sinh và giảm chi phí xã hội.

Xác định rõ cơ cấu đào tạo của hệ thống giáo dục quốc gia, đẩy mạnh phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo. Đổi mới cơ bản, toàn diện để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Trên cơ sở hệ thống các trường đại học hiện có, khẩn trương xây dựng một, hai trường đại học của Việt Nam và một số khoa trọng điểm đạt đẳng cấp quốc tế.

Sắp xếp lại hệ thống dạy nghề, nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng khoảng 17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng khoảng 15%/năm. Tăng nhanh tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề. Chú trọng đào tạo nghề có trình độ cao.

Hoàn thiện chính sách và lộ trình để đẩy mạnh hơn nữa chủ trương xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục công lập, thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập; bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường ngoài công lập và các trung tâm học tập cộng đồng. Thực hiện việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; bỏ hệ bán công. Công bố công khai các điều kiện và tạo mọi thuận lợi cho việc thành lập và phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư.

Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo, xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh giỏi. Sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả Quỹ đào tạo đại học và trên đại học ở nước ngoài.

Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng này. Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với các địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch với các giải pháp thiết thực để khắc phục nhanh tình trạng tụt hậu về phát triển giáo dục và đào tạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, bảo đảm thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục - đào tạo và dạy nghề. Đổi mới cơ chế hoạt động, đề cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, trước hết là các trường đại học. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động chống tiêu cực trong ngành giáo dục.

Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, tạo bước chuyển nhanh hơn về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia, các sản phẩm chủ lực, mũi nhọn và xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động khoa học - công nghệ. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Chú trọng công tác đào tạo và bổ sung chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học.

Đổi mới tổ chức và xây dựng quy chế liên kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa nghiên cứu và giảng dạy với sản xuất, kinh doanh. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế tài chính, nhằm gắn các hoạt động khoa học công nghệ với ứng dụng thực tế. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế.

Thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của thị trường công nghệ, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ với các doanh nghiệp bằng các hình thức thích hợp để đổi mới và chuyển giao công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh.

Ban hành chính sách thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhất là các tập đoàn lớn đầu tư vào các ngành công nghệ cao, đặc biệt là thu hút đầu tư vào Khu công nghệ cao Hoà Lạc - Hà Tây và Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Hình thành Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia nhằm thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực lựa chọn. Hoàn thiện chiến lược hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội, đồng bộ với phát triển kinh tế là một yếu tố có ý nghĩa rất quyết định để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Đặc biệt coi trọng việc tạo lập, đề cao nếp sống và làm việc theo pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; xây dựng đạo đức trong kinh doanh và lối sống văn hoá trong thanh, thiếu niên. Cán bộ đảng viên phải là người gương mẫu trong xây dựng nếp sống văn hoá cả ở gia đình, nơi làm việc và ngoài xã hội.

Bồi dưỡng các tài năng văn hoá, khuyến khích sáng tạo văn hoá, nghệ thuật để có những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hoá. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, nhất là các vùng khó khăn về kinh tế - xã hội.

Khắc phục nhanh những yếu kém trong công tác báo chí xuất bản, đáp ứng nhu cầu về thông tin ngày càng cao của nhân dân, tuyên truyền phổ biến kịp thời các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh trung thực các mặt hoạt động của đời sống xã hội; nghiên cứu việc hình thành tập đoàn báo chí mạnh. Ban hành quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc công khai hoá các hoạt động và việc cung cấp thông tin cho báo chí và nhân dân theo đúng quy định của pháp luật.

Chỉ đạo quyết liệt hơn về công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, bảo đảm kiềm chế tốc độ tăng để đạt bằng được chỉ tiêu kế hoạch về dân số. Chú trọng nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý.

Tạo mọi điều kiện để người dân có công ăn việc làm với thu nhập hợp lý là một nội dung cốt lõi của dân chủ và công bằng xã hội. Nhà nước dành ưu tiên đầu tư và phát huy nguồn lực của toàn xã hội để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh công tác dạy nghề; đồng thời khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tạo thêm nhiều việc làm.

Thực hiện vững chắc chương trình xuất khẩu lao động và tăng tỉ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo. Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm phù hợp với kinh tế thị trường. Xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất, tinh thần của người có công. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam, người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Huy động sức mạnh toàn xã hội để ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Trợ giúp kịp thời, có hiệu quả đồng bào bị thiên tai, đặc biệt là những nơi bị thiệt hại nặng nề trong cơn bão số 6 vừa qua.

Nhà nước tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo vươn lên thoát nghèo; đồng thời động viên, thu hút mọi nguồn lực để đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt hơn chính sách đặc biệt về giải quyết đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.

Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tăng đầu tư của Nhà nước để nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu. Đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp đối với các bệnh viện công lập. Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu. Hoàn thiện cơ chế khám, chữa bệnh gắn với sửa đổi chế độ viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám, chữa bệnh và chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người bệnh; Nhà nước trợ giúp một phần hoặc toàn bộ viện phí cho người nghèo, các đối tượng chính sách và trẻ em dưới 6 tuổi. Mở rộng loại hình và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp dược và sản xuất thiết bị, dụng cụ y tế. Phát triển mạng lưới cung ứng và thị trường thuốc chữa bệnh có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan chức năng. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp để phòng chống dịch cúm A (H5N1) ở người.

Những hậu quả của việc phát triển kinh tế chưa chú ý đúng mức đến bảo vệ môi trường và tốc độ phát triển kinh tế, đô thị hoá tăng nhanh đã tạo ra áp lực lớn và để lại nhiều vấn đề môi trường bức xúc. Năm 2007 và một số năm trước mắt, phải tạo cho được sự chuyển biến rõ rệt trong công tác bảo vệ môi trường, phải vừa kiểm soát và xử lý chất thải phát sinh, vừa xử lý triệt để những cơ sở đang gây ô nhiễm nghiêm trọng và từng bước khôi phục những khu vực đang bị suy thoái nặng, trước hết là các lưu vực sông, các khu công nghiệp, làng nghề, các đô thị lớn; tăng cường kiểm soát tình trạng khói bụi của các nhà máy, các phương tiện giao thông.

Phân bổ ngân sách đầu tư đúng mức cho công tác bảo vệ môi trường. Bảo đảm chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường và dành tỷ lệ thích đáng để xây dựng hạ tầng về cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải tập trung tại các đô thị; xây dựng các khu xử lý chất thải nguy hại tập trung và xử lý chất thải tại các bệnh viện.

Ban hành các loại phí bảo vệ môi trường theo nguyên tắc người nào gây ra ô nhiễm môi trường, người đó phải có trách nhiệm xử lý hoặc phải chi trả cho việc xử lý. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các dịch vụ về tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải và khuyến khích các loại hình sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu, xử lý nghiêm việc nhập khẩu chất thải, hàng hoá trái với quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ môi trường ngay từ khi xây dựng và phê duyệt các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các dự án đầu tư. Không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà để lại những hậu quả lâu dài về môi trường.

4. Tập trung chỉ đạo cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí.

Đồng thời với việc chuẩn bị đề án trình Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn II (2006 - 2010) với các nội dung trọng tâm: hệ thống thể chế; tổ chức bộ máy; tài chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; hiện đại hoá nền hành chính nhà nước.

Nghiên cứu trình Quốc hội đề án về đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính từ trung ương tới địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại; trước hết là bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; thực hiện Bộ quản lý đa ngành, giảm đầu mối, giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian; tập trung cao vào chức năng chủ đạo là cải cách hành chính, hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng giải pháp, thanh tra, kiểm tra, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội.

Phân cấp mạnh cho các Bộ và chính quyền địa phương, gắn liền với xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong các lĩnh vực. Quy định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội của cơ quan hành chính các cấp; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện.

Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật đã có hiệu lực. Tiếp tục rà soát để xoá bỏ các quy trình, thủ tục hành chính trùng chéo, phức tạp, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đẩy nhanh các biện pháp về hiện đại hoá nền hành chính, mở rộng áp dụng mô hình quản lý chất lượng trong cơ quan hành chính nhà nước; từng bước xây dựng nền hành chính điện tử, trong đó các giao dịch hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước với người dân, doanh nghiệp được thực hiện phổ biến qua giao dịch điện tử. Xúc tiến xây dựng Luật về thủ tục hành chính.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện quy chế làm việc với chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch; sửa đổi tiêu chuẩn, chức danh công chức và cơ chế đánh giá cán bộ, công chức, lấy phẩm chất và hiệu quả thực của công việc để làm thước đo. Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ đãi ngộ thoả đáng và công bằng; thực hiện đúng chế độ được nghỉ hưu của cán bộ công chức. Chú trọng giúp đỡ và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền cơ sở. Xúc tiến xây dựng Luật công vụ,

Thực hiện tốt hơn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; phải chủ động, sâu sát, lắng nghe ý kiến và đối thoại với người dân, giải quyết có lý có tình và đúng pháp luật các vụ việc, không để xảy ra khiếu kiện đông người; Ủy ban nhân dân các địa phương phải tập trung cao cho việc chỉ đạo có hiệu quả công tác này.

Tiếp tục thực hiện đồng bộ, kiên trì các giải pháp để kiềm chế tai nạn giao thông, phấn đấu giảm tối đa các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.

Triển khai thực hiện đồng bộ Nghị quyết Trung ương 3, các luật và Nghị quyết của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng phí. Kiện toàn tổ chức và triển khai hoạt động của Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng. Đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và thực hiện Chương trình hành động phòng chống tham nhũng, lãng phí của các Bộ, địa phương, thật sự thiết thực, hiệu quả; nói đúng mực, làm kiên quyết, đúng pháp luật, trước hết là ở ngành, địa phương, đơn vị mình.

Tập trung chỉ đạo việc rà soát để bổ sung, điều chỉnh các văn bản pháp quy có liên quan và thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sử dụng đất đai, tài sản công, chi tiêu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý tài chính và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân và công tác cán bộ.

Triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có trọng tâm, trọng điểm đối với các lĩnh vực nêu trên; làm rõ chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan thanh tra, khắc phục sự trùng dẫm; nâng cao hiệu quả và chủ động ngăn ngừa tiêu cực, nhũng nhiễu trong thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.

Thực hiện nghiêm quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai những cán bộ, công chức tham nhũng. Tập trung chỉ đạo điều tra làm rõ và xử lý đúng pháp luật những vụ việc tham nhũng đã được phát hiện, nhất là những vụ tham nhũng lớn, xã hội đặc biệt quan tâm.

Công tác phòng chống tham nhũng phải được kết hợp chặt chẽ với cải cách hành chính ở từng cơ quan, địa phương, đơn vị và gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, quan liêu. Trước hết là cải tiến quy trình, thủ tục hành chính, phân cấp mạnh và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị, từng công chức và người đứng đầu cơ quan; thu gọn đầu mối trong việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân và doanh nghiệp theo mô hình một cửa. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức có chức năng và thẩm quyền giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm việc công khai các quy định về thủ tục hành chính và các thông tin cần thiết khác tại tất cả các địa điểm tiếp nhận hồ sơ, nơi làm việc trực tiếp với người dân và doanh nghiệp để mọi người biết, thực hiện và giám sát.

Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong việc phát hiện và phê phán các hành vi tham nhũng lãng phí; không thổi phồng và đưa những thông tin không đúng sự thật, gây bất lợi cho công tác phòng chống tham nhũng và lợi ích của đất nước.

Thưa các đồng chí và các vị đại biểu Quốc hội,

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2007 và cả Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, chúng ta kiên trì thực hiện nhất quán, sáng tạo đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong những tháng cuối năm 2006 và năm 2007, triển khai thực hiện đồng bộ, linh hoạt và có hiệu quả thiết thực các chương trình hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; khẩn trương triển khai các công việc cần thiết để bảo đảm phát triển bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới; đồng thời tập trung chỉ đạo chuẩn bị thật tốt về mọi mặt để tổ chức thành công Tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC, bảo đảm tuyệt đối an toàn, văn minh, tiết kiệm, tăng cường hữu nghị hợp tác, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong khi tập trung sức cao nhất cho phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta vẫn phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng an ninh, thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chủ động và kiên quyết bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Chính phủ sẽ nỗ lực phấn đấu làm hết sức mình để hoàn thành trọng trách được giao, đồng thời xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí đồng bào cả nước, tăng cường giám sát, hợp tác, chung sức chung lòng, nỗ lực phấn đấu tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn thách thức, tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các lĩnh vực để hoàn thành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, đưa Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội thành hiện thực sinh động trong cuộc sống.

Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí và các vị đại biểu

****

[1] Kết quả thực hiện cụ thể các chỉ tiêu này được nêu trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 đã được gửi trước tới các đại biểu Quốc hội.

[2] Số liệu cụ thể được trình bày trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 đã được gửi trước tới các đại biểu Quốc hội.

[3] Trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 đã được gửi trước tới các đại biểu Quốc hội, chỉ tiêu này được nêu với phương án 8,3 - 8,5%.



Báo cáo phân tích thị trường