|
Bill Gates, biểu tượng của sự giàu có. Làm thế nào để giàu được như vậy? |
Chọn... tổ tiên
Ngạn ngữ Ý có câu: "Có ba cách để trở nên giàu có: hoặc thừa hưởng, hoặc cưới xin, hoặc đi ăn cắp".
Tỉ phú William Henry Gates III (tức Bill Gates) rơi vào trường hợp thứ nhất. Khi chào đời vào ngày 28.10.1955, cậu bé Bill Gates đã khéo "chọn" cho mình một người ông nội giàu có: J.W.Maxwell, nhà sáng lập Ngân hàng Quốc gia City Bank vào năm 1906 tại thành phố Seattle. Con trai của Maxwell cũng làm trong lĩnh vực ngân hàng, người đã để lại tài sản ủy thác trị giá 1 triệu USD cho Bill Gates.
Sau khi "chọn" được ông nội, bạn cũng nên... chọn bố mẹ cho mình. Chuyện rằng: "Một người đàn ông kể với chàng trai trẻ: "Năm 1932, trong túi tôi chỉ có 1 xu. Tôi bèn mua 1 trái táo và ngồi suốt ngày để lau sạch nó, sau đó tôi bán được 10 xu. Tôi lấy số tiền đó mua hai trái táo, lại ngồi lau suốt ngày, đến 5 giờ chiều thì tôi thu được 20 xu. Kiên trì với công việc này, cuối cùng tôi có 1,37 USD. Thế rồi bố vợ tôi chết, để lại 2 triệu USD".
|
Bố của Bill đã lấy được bà Mary Maxwell và được để lại 2 triệu USD, giúp Bill sau này được học ở một trường đắt tiền và khởi nghiệp với máy tính hiện đại nhất. |
Câu chuyện này tương tự như trường hợp của William Henry Gates và người vợ Mary Maxwell, ông bà thân sinh ra ngài Chủ tịch Microsoft hôm nay. Khi đó, ông Gates (cha) là một luật sư còn bà vợ Mary Maxwell - cháu nội của J.W.Maxwell - là thành viên hội đồng quản trị của các công ty First Interstae Bank, Pacific Northwest Bell, United Way.
Sinh ra trong gia đình đó, Bill Gates được đi học tại trường đặc biệt với mức học phí tới 5.000 USD/năm (cao gấp 3 lần học phí cùng thời ở Đại học Harvard). Khi cần máy tính, cậu đã được bố mẹ cho một chiếc DEC PDP-10, tương đương với thứ mà các chuyên gia tại Viện Công nghệ Massachusetts thời đó sử dụng.
Hãy ăn quả, chớ trồng cây !
Các công trình nghiên cứu có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, để chóng trở nên giàu sụ như Bill Gates, bạn đừng mất công đầu tư vào các công trình nghiên cứu mà hãy chờ các công ty nhỏ nghiên cứu xong xuôi rồi mua lấy nó.
Ngày xưa, luật chống độc quyền cấm các công ty mua đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của mình, giờ thì điều đó không còn. Khi các sản phẩm của Microsoft bị những chiếc máy tính nối mạng và công nghệ web đe dọa, Bill Gates đã nhẹ nhàng thâu tóm WebTV và Hotmail. Một điều quan trọng nữa là hãy thuê những tay cừ khôi làm việc cho mình. Như chúng ta đã biết, một số người viết phần mềm Microsoft Windows trước đây từng làm cho Xerox PARC. Có thể nói, Xerox đã chi tiền để nghiên cứu, còn Microsoft đã chi tiền để phát triển.
"Bill (Gates) luôn thông minh hơn người khác. Tại đây (Microsoft), mỗi mét vuông có khối người tài nhưng Bill thông minh hơn cả". Mike Maples - Phó chủ tịch Microsoft phát biểu trên tờ New Yorker, 10.1.1994 |
Một điều quan trọng nữa là đừng bao giờ xắn tay áo lên để làm tất cả những thứ mà mình thành thạo. Bạn là một kỹ sư có hạng, thật xót xa nếu như cứ để cho người khác thực hiện ý tưởng của mình.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng một người viết phần mềm sẽ không bao giờ trở nên giàu có như Gates, đặc biệt là những người viết phần mềm với các ngôn ngữ thường thường như C, Java. Có một đôi lúc tự bạn viết phần mềm sẽ tốt, nhưng quan trọng hơn là bạn cần tập trung thời gian để suy nghĩ về ứng dụng của phần mềm đó. Bill Gates giỏi ở khía cạnh tổng hợp các bản mã, chứ không phải ở lĩnh vực viết lên những bản mã đó.
Đào tạo giám đốc điều hành
Nếu bạn là một người thông minh đến mức tò mò, bạn khó có khả năng điều hành một doanh nghiệp trên 50 người.
Suốt ngày bạn sẽ phí thời gian ngồi họp, đọc ngấu nghiến những văn bản pháp luật chứa đầy lỗi mà bạn không biết mức độ nghiêm trọng của nó. Lúc đó có thể bạn sẽ chọn một giám đốc điều hành chuyên nghiệp để chia sẻ gánh nặng này. Nhưng Bill Gates không làm thế, ông ta tuyển dụng Steve Ballmer vào năm 1980 và mãi 20 năm sau thì mới đưa người này lên ghế giám đốc điều hành.
|
Steve Ballmer được Bill Gates tuyển từ năm 1980 nhưng qua 20 năm đào tạo mới được đặt vào ghế giám đốc điều hành |
Kiếm tiền trong ngành phần mềm đòi hỏi người ta phải am hiểu tường tận mọi ngõ ngách, mọi trục trặc có thể xảy ra. Những công ty công nghệ lớn ít khi thuê các nhà kinh tế về điều hành bởi những nhà kinh tế chỉ chịu lao động vừa mức mà họ được trả lương.
Adobe cũng là một ví dụ điển hình khác, hai nhà sáng lập Adobe là tiến sĩ công nghệ từng làm thuê cho Xerox PARC, họ biết tất cả mọi khúc mắc của ngành đồ họa và phát hành. Adobe thành công nhờ rất lớn vào kinh nghiệm của 2 vị này. Jack Welch cũng gia nhập GE từ năm 1961 và mãi 20 năm sau ông ta mới lên làm giám đốc điều hành.
Tập trung vào lợi nhuận
Trong cuốn sách The HP Way, người đồng sáng lập Tập đoàn Hewlett-Packard là David Packard viết: "Tại Hewlett-Packard, con người, vật liệu, phương tiện, tiền bạc và thời gian là những nguồn luôn sẵn có để chúng tôi làm việc. Bằng kỹ năng của mình, chúng tôi biến những nguồn này thành sản phẩm và dịch vụ hữu ích.
Nếu chúng tôi làm tốt, khách hàng sẽ trả cho chúng tôi nhiều tiền hơn so với chi phí mà chúng tôi bỏ ra". Vào những năm 1990, ngành "dotcom" rất khó sinh lợi nhưng ý tưởng của HP đã chứng minh sự đúng đắn. Trong ngành phần mềm thì sao? Bước quan trọng là xây dựng những hệ thống thông tin tạo ra giá trị cho người sử dụng. Khi đã "tạo ra giá trị", bạn có thể thu lại bằng nhiều cách: bán giấy phép sử dụng, thu phí đào tạo, phí cung cấp dịch vụ...
Thị trường chứng khoán cũng là một khái niệm hấp dẫn. Đụng chạm đến lĩnh vực này, bạn hãy để các nhà đầu tư chứng khoán "góp vốn" với bạn nhưng đừng để họ điều hành công ty bạn. Microsoft thường lợi dụng các nhà đầu tư chứng khoán để nâng giá cổ phiếu của mình. Tuy nhiên, với những người này thì cần cẩn thận, một nhà đầu tư chứng khoán thành công chưa chắc đã biết về công việc điều hành doanh nghiệp.