Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Những tồn tại của ngành trái cây Việt Nam khi gia nhập WTO
27 | 08 | 2007
Năm 2002, việc Trung Quốc gia nhập WTO đã đánh dấu giai đoạn khủng hoảng của ngành xuất khẩu trái cây và rau quả Việt Nam: thị trường bị thu hẹp, kim ngạch giảm mạnh.
Nếu năm 2001, xuất khẩu rau, quả và trái cây đạt 330 triệu USD, thì năm 2002 chỉ còn 219 triệu USD, năm 2005 còn 235 triệu USD. Số nước nhập khẩu trái cây Việt Nam cũng giảm từ 42 nước xuống còn 36, trong đó Trung Quốc, nước nhập khẩu chủ yếu trái cây Việt Nam lại giảm mạnh lượng nhập. Vào WTO, trái cây Việt Nam sẽ thêm khó khăn.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, cho biết, khi gia nhập WTO, các quốc gia thành viên phải tuân thủ quy định mặt hàng rau quả và trái cây tươi phải đảm bảo vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nhưng hầu hết những yêu cầu khắt khe đó, trái cây Việt Nam chưa đạt. Đây là hậu quả của việc sản xuất nhỏ lẻ, manh mún (0,25ha-0,3ha/hộ và 74%-85% số hộ trồng 2-3 loại cây).

Chủ tịch Hiệp hội Trái cây Việt Nam, hai rào cản lớn nhất đối với trái cây Việt Nam để có thể xuất khẩu ra những thị trường lớn, chứ không phải “mon men” như hiện nay là chất lượng và an toàn vệ sinh.

Do sản xuất manh mún, nhiều chủng loại nên quy cách trái cây không đồng nhất, lượng hàng hóa không nhiều. Một hạn chế khác ta khó vượt qua nhưng lại được các nước nhập khẩu trái cây rất quan tâm là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.

Vì vậy, áp dụng quy trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cây ăn trái và tiến tới sản xuất trái cây an toàn (GAP) là điều phải làm ngay. Giống cũng là vấn đề lớn vì chưa ổn định, thiếu vườn cây đầu dòng, phần lớn không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng trái cây.

Do đó việc sản xuất trái cây sạch bệnh, chất lượng cao và giảm giá thành là yêu cầu cấp thiết để tăng sức cạnh tranh của trái cây Việt Nam ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu.

Theo Liên hợp quốc, khi thu nhập người dân tăng 1% thì nhu cầu rau quả cho đời sống tăng 1,3%. Trong lúc nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6% năm, dù mức cung chỉ tăng 2,8% năm, nhưng trái cây Việt Nam vẫn cứ trầy trật khi xuất khẩu.  Giống trái cây ngon vùng ĐBSCL không thiếu, nhưng lại thiếu số lượng, quy cách và tính an toàn. Nông dân trồng cây ăn trái chưa quan tâm nhiều đến chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. 

 
Và khi Việt Nam gia nhập WTO, nếu trước đây trái cây các nước, nhất là Thái Lan và Trung Quốc vào Việt Nam bằng đường vòng thì nay sẽ theo những đường ngắn nhất để vào. Dù số lượng có thể không thay đổi nhiều, nhưng giá trái cây sẽ giảm thêm. Sầu riêng Moongthong từ Thái Lan vào Việt Nam chỉ khoảng 8.000 đồng-10.000 đồng/kg. Để cạnh tranh, trái cây Việt Nam buộc phải giảm giá, vì vậy, giá sầu riêng trong nước khó đứng vững trên 20.000 đồng/kg, dù là các loại đặc sản, như sầu riêng 9 Hóa, Ri 6….

Trong trường hợp này, người tiêu dùng sẽ được lợi, nhưng người trồng cây ăn trái nếu không có động thái thích ứng sẽ khó tồn tại. Lúc đó, trái cây ngoại sẽ vào càng nhiều.

Để cạnh tranh, phải sản xuất tập trung. Muốn vậy, phải liên kết, hợp tác, không thể riêng lẻ trong thời hội nhập: người lo trồng, người lo bán cần có sự phân công cụ thể.
Hiện nay, hợp tác xã cây ăn trái ở ĐBSCL quá ít, toàn vùng chỉ khoảng 15 HTX. Vấn đề này đã đặt ra khá lâu, nhưng nay, khi nước đã tới chân thì không thể chần chừ.

Tổ chức lại sản xuất trái cây đồng bộ là yêu cầu bắt buộc trong giai đoạn hội nhập. Trong đó, vấn đề liên kết sản xuất giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân với nhà khoa học, cùng với vấn đề sản xuất giống và giống cây đầu dòng, vấn đề sản xuất an toàn (GAP), vấn đề công nghệ sau thu hoạch.

Mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong lĩnh vực trái cây cũng quá ít, vì vậy cần nhân rộng mô hình liên kết trong quy trình trồng và tiêu thụ cây ăn trái của Donatechno, Vinamit, Nông trường sông Hậu… Chính phủ cũng cần nhanh chóng thảo luận để ký những hợp đồng  kiểm dịch thực vật với các nước, nhất là Mỹ, Nhật, Úc…

(Vinanet)



Báo cáo phân tích thị trường