Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, nửa đầu tháng 1/2009, XK hàng thuỷ sản khô đạt gần 3,85 triệu USD với 792 tấn, giảm 16,6% so cùng kỳ. Tại hầu hết các thị trường NK hàng khô lớn đều giảm giá trị NK hoặc tăng không đáng kể . Riêng thị trường Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan, ASEAN có dấu hiệu khởi sắc.
Năm 2008, Nga và Ucraina nhập nhiều cá tra, basa và hàng khô Việt Nam. Ucraina NK 2,13 nghìn tấn thủy sản khô, trị giá 10,44 triệu USD, tăng 85,5% về KL và 120,7% về GT so với năm 2007. Nga trở thành thị trường NK hàng khô chính của Việt Nam khi đứng thứ 4 sau ASEAN, Hàn Quốc và Trung Quốc, tăng 22,5% về KL và 29,9% về GT so với năm trước.
Đáng tiếc, bước sang năm 2009, 2 thị trường tiềm năng này nhập khẩu lại giảm, do cuối tháng 12/2008, Cục Kiểm dịch động, thực vật Liên Bang Nga (VPSS) đã ban hành lệnh cấm đối với các DN thủy sản Việt Nam.
Cho dù, năm 2008, giá trị XK hàng khô sang những thị trường truyền thống: Hàn Quốc, Trung Quốc…giảm so với năm trước nhưng đây vẫn là một trong những thị trường NK thủy sản khô lớn nhất của Việt Nam. Nếu năm 2008, XK hàng khô sang Trung Quốc giảm mạnh đưa nước này xuống vị trí thứ 3, sau khi giữ vị trí quán quân về NK thuỷ sản khô của Việt Nam năm 2007, thì nửa đầu tháng 1/2009 Trung Quốc lại là thị trường NK hàng khô lớn nhất với khối lượng 194 tấn và giá trị 1,06 nghìn USD, nhưng giảm 45,4% về KL và 8% về GT so cùng kỳ. Trong đó, riêng Hồng Kông NK 88 tấn hàng khô với tổng trị giá 498 nghìn USD, tăng 115% về KL và 131,6% về GT so với cùng kỳ năm 2008.
Nửa đầu tháng 1/2009, Hàn Quốc vẫn đứng vị trí thứ 2 về NK hàng khô với khối lượng 83 tấn và giá trị 921 nghìn USD nhưng lại giảm 52,8% về KL và 36,1% về GT so với cùng kỳ năm 2008 do nửa đầu năm ngoái, nhu cầu thủy sản khô tại thị trường này tăng vọt nên Hàn Quốc nhanh chóng vượt Trung Quốc trở thành thị trường NK hàng khô lớn nhất của Việt Nam.
XK thủy sản khô sang các nước ASEAN (đứng đầu là Thái Lan) vẫn giữ mức tăng trưởng khi tăng 22,4% về KL và 15,6% về GT so với năm 2007 nhưng đã “tuột mất” vị trí NK đứng đầu.
So với năm 2007, khối lượng hàng khô Việt Nam XK sang khu vực này tăng 26,3%. Một phần để tiêu thụ tại thị trường nội địa, phần khác các DN của khu vực này NK hàng khô để tái xuất. Có thể nói, đây là thị trường NK hàng khô tương đối ổn định với 3 quốc gia lớn: Thái Lan, Xinhgapo và Malaixia. Trong thời gian tới, đây vẫn là khu vực NK hàng khô với tốc độ tăng trưởng khá và “an toàn”.
Nửa đầu tháng 1/2009, xuất khẩu hàng khô sang Nhật tăng 255,1% về KL và 569,4% về GT so với cùng kỳ năm 2008, Nhật Bản là quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất nhưng chỉ chiếm 16,9% trong cơ cấu thị trường NK hàng khô của Việt Nam.
DN bắt đầu chuyển hướng XK sang các thị trường Apganixtan, Ôxtrâylia và Iran.