So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu chè đã tăng 9,7% về lượng và 8,9% về giá trị. Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas) cho biết: nguyên nhân chính khiến ngành chè Việt Nam vẫn tăng trưởng trong thời gian qua là do sản phẩm đã dần đi vào ổn định về chất lượng.
Thêm nữa, đầu năm nay, ảnh hưởng của thời tiết khô hạn đã làm cho sản lượng chè của Srilanka và Ấn Độ sụt giảm mạnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong ngành đã nhận được sự hỗ trợ kịp thời về lãi suất từ Chính phủ và không ngừng tìm kiếm thị trường mới.
Hiện Pakistan, Nga, Đài Loan, Trung Quốc, Afganistan là những quốc gia và vùng lãnh thổ đứng đầu về nhập khẩu chè từ Việt Nam. Chỉ tính riêng bốn tháng đầu năm, lượng nhập khẩu chè của Pakistan đã tăng hơn 3.000 tấn, Nga tăng khoảng 1.700 tấn, Thổ Nhĩ Kỳ tăng 300 tấn, Hà Lan tăng gần 500 tấn....
Trong khi đó, tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác, lượng nhập khẩu lại có sự sụt giảm mạnh so với cùng kỳ 2008. Cụ thể, lượng nhập khẩu của Đài Loan giảm 600 tấn, Ba Lan giảm trên 300 tấn, đặc biệt là các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất giảm tới 1.500 tấn.
Trong quý 2 hàng năm mới là niên vụ chính của ngành chè và đến nay rất nhiều doanh nghiệp trong ngành đã có hợp đồng xuất khẩu tới hết năm.
Với những kết quả khả quan trên, dự kiến kim ngạch toàn ngành năm 2009 sẽ đạt khoảng 130-140 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam quí I/2009
Thị trường XK | Lượng (tấn) | Trị giá (USD) |
Ấn Độ | 638 | 483.872 |
Arập xê út | 85 | 190.72 |
Ba Lan | 299 | 373.577 |
Tiểu VQ Arập TN | 37 | 44.578 |
Đài Loan | 3.015 | 3.676.433 |
Đức | 656 | 817.238 |
Hoa Kỳ | 840 | 825.344 |
Indonêsia | 637 | 461.248 |
Nga | 3.866 | 4.542.449 |
Pakistan | 6.739 | 9.336.890 |
Philippin | 98 | 290.14 |
Trung Quốc | 875 | 1045.776 |
Theo Hiệp hội chè Việt Nam, trong quý 2 hàng năm mới là niên vụ chính của ngành chè và đến nay rất nhiều doanh nghiệp trong ngành đã có hợp đồng xuất khẩu tới hết năm.
Với những kết quả khả quan trên, dự kiến kim ngạch toàn ngành năm 2009 sẽ đạt khoảng 130-140 triệu USD.