Giống chè Shan Chất Tiền được Hội đồng Khoa học Công nghệ (Bộ Nông nghiệp-PTNT) nghiệm thu, đánh giá cao kết quả và công nhận là giống tạm thời, cho phép đưa vào sản xuất thử.
TS. Lê Quốc Doanh, Viện trưởng NOMAFSI cho hay: Với mục tiêu nâng cao chất lượng, giá trị và uy tín thương hiệu chè Việt Nam trên thị trường chè thế giới, trong nhiều năm qua Viện tập trung nghiên cứu, xác định giống chè Shan - nguồn giống được tập hợp và lưu giữ trong tập đoàn các giống chè có nguồn gốc từ vùng cao Hà Giang nhằm khai thác hết các ưu điểm chính như: sinh trưởng khỏe, cho năng suất cao (năng suất búp bình quân ở tuổi 6-8 đạt 10-15 tấn/ha), chất lượng chế biến chè đen tương đương tiêu chuẩn chè CTC của Srilanka; khả năng thích ứng rộng, đặc biệt là các vùng thấp, có thể trồng được ở tất cả các vùng trung du, đồi núi thấp dưới 600m so với mực nước biển.
Từ 6 giống chè Shan: Chất Tiền, Nậm Ngặt 2, Cù Dề Phùng, Gia Vài, Tham Vè và giống chè Quốc gia TRI-777 trồng tại Phú Hộ (Phú Thọ) các tác giả nhóm đề tài đã chọn được giống chè Shan Chất Tiền có nhiều ưu điểm vượt trội so với các giống khác: năng suất búp cao trên 10 tấn/ha, chất lượng tốt phù hợp cho chế biến chè đen bổ sung vào bộ giống chè đen chất lượng cao của Việt Nam. Điều lý thú hơn cả là so với các giống chè Shan trồng tại vùng cao Hà Giang thì các giống chè Shan trồng tại Phú Hộ cho hàm lượng tanin, chất hòa tan, cafein, đường khử, đạm tổng số khá cao nên chất lượng không thua kém chè Shan vùng cao, một số giống còn có khả năng cho chất lượng cao hơn như Chất Tiền và Tham Vè do có hàm lượng tanin và chất hòa tan cao.
Thành công của đề tài mở ra một hướng mới trong sản xuất và chế biến chè xanh, chè đen chất lượng cao tại nhiều vùng sinh thái khác nhau kể cả các vùng trung du, đồi núi thấp có độ cao dưới 600m so với mực nước biển nhằm khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương. Hiện tại NOMASI vẫn tiếp tục nghiên cứu, mở rộng sản xuất trên cả 2 mặt nông nghiệp và công nghiệp chế biến để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao từ chè Shan Chất Tiền đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.