Trong những năm qua, ngành hồ tiêu Việt Nam đã có những bước phát triển bền vững và là một trong những sản phẩm ổn định trong ngành nông nghiệp.
Theo Hiệp hội tiêu thế giới, năm 2009 Việt Nam vẫn là nước đứng đầu về sản lượng thu hoạch hồ tiêu với 93.000 tấn, tiếp đến là Ấn Độ 60.000 tấn, Brazil 37.000 tấn, Indonesia 25.000 tấn, Malaysia 22.000 tấn. Thực tế, đến nay cả nước đã thu hoạch xong vụ hồ tiêu 2008/09 với sản lượng 95.000 tấn tăng 4.000 tấn tương đương với 4,4% so với năm 2008. Từ sự áp đảo về sản lượng nên Việt Nam có tiếng nói rất quan trọng đối với ngành hồ tiêu quốc tế.
Thị trường xuất khẩu của hồ tiêu Việt Nam được mở rộng ra 80 quốc gia trên thế giới đặc biệt là các loại tiêu chất lượng cao được xuất sang Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU… ngày càng tăng. Tuy nhiên, để phát triển mạnh hơn thì yếu tố tiên quyết của ngành hồ tiêu xuất khẩu là phải nhanh chóng nâng cao giá trị hồ tiêu. Hiện tại, tỉ lệ xuất hồ tiêu thô còn khá cao, chiếm trên 60% sản lượng do đó kim ngạch xuất khẩu đạt được lại không cao. Theo Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam (VPA), do uy tín, năng lực, công nghệ chế biến… của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa sánh kịp với các nhà phân phối hồ tiêu hàng đầu thế giới, họ đã có thương hiệu nổi tiếng nên được người tiêu dùng tín nhiệm.
Việt Nam, hiện có 13 nhà máy chế biến hồ tiêu, công suất khoảng 60.000 tấn/năm, chủ yếu xử lý bằng hơi nước, và mới chỉ cho sản phẩm tiêu sạch. Khoảng cách giữa tiêu chuẩn tiêu sạch với tiêu đạt chuẩn ASTA là vài trăm USD/T. Mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 90.000 tấn, chủ yếu là xuất tiêu đen xô FAQ, với chất lượng như hiện nay thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này luôn thất thu từ 18-45 triệu USD/T. Bảy năm trở lại đây, hồ tiêu Việt Nam luôn đứng đầu thế giới nhưng lợi nhuận thu được vẫn kém xa so với sản phẩm cùng loại của các nước khác. Về cơ bản, chất lượng tiêu của nước ta không thua các nước khác, nhưng quan trọng là phải tạo ra được những doanh nghiệp lớn có uy tín, tạo được thế đứng trên thương trường và chuyển hướng đầu tư từ lượng sang chất như nhiều các nước khác đã làm để thay đổi cục diện.
Về giá xuất khẩu: Giá hồ tiêu xuất khẩu trung bình trong tháng đạt 2.457 USD/T, tăng 132 USD/T so với tháng 6/2009 nhưng lại giảm đến 29% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, giá tiêu trắng đạt 3.397 USD/T, tăng 246 USD/T. Giá tiêu tại thị trường nội địa cũng tăng theo giá xuất khẩu. Đầu tháng giá thu mua tại các hộ nông dân đạt từ 36.000-38.000 VND/kg, giữa tháng và cuối tháng giá tăng đột biến lên 43.000-45.000 VND/kg. Dự đoán, giá tiêu từ nay đến cuối năm sẽ tương đối ổn định, nếu có tăng cũng chỉ tăng lên không đáng kể.
Về thị trường xuất khẩu: So với tháng cùng kỳ năm 2008, lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang các thị trường đều có sự gia tăng.
Tuy nhiên, hai thị trường lớn của hồ tiêu Việt Nam là Hoa Kỳ và Đức lại giảm so với tháng trước. Lượng hồ tiêu xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong tháng 7/2009 đạt 1.680 tấn với kim ngạch 4,3 triệu USD, giảm 20% về lượng và giảm 23,27% về trị giá so với tháng trước, đồng thời giảm 29,23% về kim ngạch nhưng lại tăng nhẹ 5% về lượng so với cùng kỳ năm 2008. Tính chung 7 tháng đầu năm, lượng hồ tiêu xuất khẩu sang đây đạt 8.117 tấn với kim ngạch 22,66 triệu USD, tăng 26,14% về lượng và tăng 10,67% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2008.
Tiếp đến là thị trường Đức, với lượng xuất khẩu sang thị trường này đạt 1.136 tấn với kim ngạch 3,11 triệu USD, giảm 27,32% về lượng và 18,95% về kim ngạch so với tháng 6/2009, đồng thời lại tăng 73,28% về lượng và 18,35% về trị giá so với tháng 7/2008. Như vậy, tổng lượng hồ tiêu xuất khẩu sang Đức trong 7 thán đạt 7.110 tấn với kim ngạch 17,61 triệu USD, tăng nhẹ 8,7% về kim ngạch nhưng lại tăng mạnh 90,41% về lượng so với 7 tháng đầu năm 2008.
Ngoài ra, lượng hồ tiêu xuất khẩu sang một số thị trường khác có sự tăng mạnh như: Pháp (tăng 160,34%), Bỉ (132,14%), Singapore (43,49%).
Thị trường xuất khẩu hạt tiêu trong tháng 7 và 7 tháng năm 2009
(Lượng: tấn; Trị giá: 1.000 USD)
| T7/09 | 7T/09 | So với 7T/08 (%) |
| Lượng | Trị giá | Lượng | Trị giá | Lượng | Trị giá |
Mỹ | 1.681 | 4.278 | 8.117 | 22.660 | 26,14 | 10,67 |
Đức | 1.238 | 3.292 | 7.110 | 17.609 | 90,41 | 8,70 |
UAE | 1.101 | 2.401 | 6.454 | 13.057 | 19,72 | -26,03 |
ai cap | 461 | 1.020 | 4.760 | 9.628 | | |
Pakixtan | 829 | 1.815 | 4.706 | 9.484 | | |
Hà Lan | 644 | 1.639 | 4.646 | 11.745 | 40,53 | -7,20 |
Ấn Độ | 939 | 2.245 | 4.351 | 9.726 | 142,80 | 63,24 |
Singapore | 729 | 1.520 | 3.600 | 7.056 | 7,82 | -34,63 |
Tây Ban Nha | 369 | 995 | 3.168 | 7.522 | 50,21 | -10,07 |
Nga | 567 | 1.266 | 3.028 | 6.139 | 8,22 | -35,20 |
Malaixia | 500 | 1.276 | 2.125 | 5.045 | 114,21 | 44,89 |
Ba Lan | 256 | 593 | 1.889 | 4.346 | 7,45 | -23,53 |
Ucraina | 275 | 574 | 1.795 | 3.416 | -2,66 | -43,91 |
Pháp | 466 | 1.140 | 1.598 | 4.111 | 110,54 | 34,26 |
Philippine | 183 | 391 | 1.531 | 3.141 | 73,58 | 4,98 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 147 | 278 | 1.403 | 2.780 | -6,65 | -42,23 |
Anh | 264 | 819 | 1.281 | 4.117 | 10,91 | -18,80 |
Italia | 171 | 414 | 1.174 | 2.881 | 135,27 | 72,83 |
Nhật Bản | 176 | 835 | 1.150 | 5.591 | 28,92 | 47,05 |
Hàn Quốc | 141 | 353 | 1.090 | 2.490 | 1,40 | -36,53 |
Nam Phi | 100 | 203 | 786 | 2.049 | 55,64 | 0,24 |
Canađa | 122 | 312 | 517 | 1.397 | 137,16 | 48,78 |
Australia | 119 | 294 | 441 | 1.171 | 50,51 | -1,68 |
Bỉ | 131 | 360 | 438 | 1.239 | 23,38 | -4,47 |