Ông Proceso J. Alcala đã tuyên bố giảm thuế trong bài phát biểu tại Hội nghị Cá ngừ Quốc gia lần thứ 13 ở thành phố General Santos, sau khi Hội đồng Quản lý nghề cá và Nguồn lợi thủy sản quốc gia (NFARMC) đưa ra đề xuất này tại cuộc họp ngày 22/7 vừa qua.
Mức thuế được áp dụng đối với các DN trong ngành theo Sắc lệnh Hành chính Nghề cá (FAO) số 233 năm 2010 chủ yếu dựa trên đề xuất của NFARMC.
Cục trưởng Cục Nghề cá và Nguồn lợi thủy sản Philippin (BFAR) Asis G. Perez cho biết, dựa trên khảo sát giá của Cục Thống kê Nông nghiệp Philippin (BAS), thuế suất được giảm xuống 1.650 pêsô, tương đương với 0,2% giá trị cá nguyên liệu, tính từ giá bán buôn trung bình năm 2010.
Theo Liên minh các ngành khai thác và các ngành liên quan khu vực SOCSKSARGEN (SFFAII), thuế XK là một rào cản và gánh nặng đối với các tập đoàn thương mại cá ngừ và các công ty đồ hộp vì thuế suất sẽ làm tăng giá cá ngừ và phụ phẩm, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Chủ tịch Marfenio Y. Tan của SFFAII cho rằng, Sắc lệnh FAO 233 không thống nhất và đi ngược với mục tiêu đẩy mạnh XK của chính phủ.
NFARMC đã ban hành Sắc lệnh FAO 233 theo tinh thần của Đạo luật 9147 (Đạo luật Bảo vệ và Bảo tồn nguồn lợi hoang dã năm 2011) nhằm giảm bớt lượng khai thác cá ngừ di cư.
NFARMC là một Hội đồng Tư vấn đa ngành hoạt động dưới sự giám sát của Bộ Nông nghiệp (DA) thông qua BFAR, chuyên tư vấn cho các thành viên về các chính sách bảo vệ, bảo tồn, phát triển và quản lý bền vững nguồn lợi thủy sản và nghề cá quốc gia.
Các đề xuất về chính sách của NFARMC được gửi lên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp xem xét và phê chuẩn.
60% sản lượng cá ngừ khai thác của nước này được tập kết ở thành phố General Santos, trung tâm chế biến cá ngừ của Philippin.
Ngành cá ngừ nước này đang trong giai đoạn khó khăn sau khi Ủy ban Quốc tế về Bảo tồn và Quản lý nguồn lợi thủy sản ở Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC) ban hành lệnh cấm khai thác cá ở các vùng biển ngoài khơi.
Năm 2010, sản lượng cá ngừ nước này đạt 387.101 tấn, giảm 9% so với năm 2008. Trong đó, sản lượng cá thương phẩm chiếm 70%, tương đương 271.625 tấn, giảm 14% so với năm 2008.
Tổng giá trị sản lượng cá thương phẩm năm 2010 đạt 17 tỷ pêsô, trong đó khu vực SOCSKSARGEN chiếm 63% (10,7 tỷ pêsô).
Kim ngạch XK cá ngừ năm 2010 đạt 359,4 triệu USD (gần 15,45 tỷ pêsô theo tỷ giá 43 pêsô/USD).
Trong tổng khối lượng XK, cá ngừ đóng hộp chiếm 70% (76.800 tấn), và 33.688 tấn cá ngừ tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh. XK cá ngừ đóng hộp năm 2010 giảm 8% so với năm 2009.
Theo Vasep