Sau đây là số liệu quan trọng và thực trạng về sản lượng và xuất khẩu cà phê Việt Nam. Việt Nam là nhà sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới sau Brazil và đứng đầu thế giới về sản xuất robusta.
Niên vụ
|
2013/2014
|
2012/13
|
2011/12
|
2010/11
|
Diện tích trồng
|
|
622.100
|
586.200
|
555.100
|
Sản lượng (triệu bao 60kg)
|
Vicofa (6/8)
|
20,0
|
23,0
|
25,0
|
21,27
|
Thăm dò của Reuters (25/7)
|
25,0
|
25,0
|
26,5
|
18,5
|
Thương nhân (4/7)
|
27-29
|
24-26
|
27,5
|
|
USDA (21/6)
|
24,8
|
24,95
|
26,0
|
19,41
|
ICO (11/12)
|
|
22,0
|
24,06
|
19,47
|
Xuất khẩu
|
USDA (21/6)
|
23,6
|
23,8
|
24,43
|
18,64
|
Chính phủ
|
|
|
26,67
|
21,46
|
Nhập khẩu
|
USDA (21/6)
|
0,45
|
0,45
|
0,37
|
0,35
|
Tiêu thụ trong nước
|
USDA (21/6)
|
1,90
|
1,82
|
1,66
|
1,34
|
Sản xuất
Niên vụ cà phê của Việt Nam từ tháng 10 tới tháng 9 năm sau. Vụ thu hoạch thường bắt đầu trong tháng 10, đạt đỉnh vào cuối tháng 11 và kết thúc vào tháng 1 năm sau. Vụ thu hoạch này bắt đầu trong cuối tháng 8 tuy nhiên khối lượng rất ít và chất lượng không ổn định như lệ thường.
Khoảng 80% cà phê của Việt Nam đến từ Tây Nguyên, biên giới với Lào và Cambodia ở phía Tây. Các công ty của Việt Nam và các cá nhân cũng thuê đất tại hai nước láng giềng để trồng cà phê.
Khu vực Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắc Nông và Kontum với sếp hạng theo thứ tự đó. Riêng Đắc Lắc sản xuất 1/3 tổng sản lượng của Việt Nam. Việt Nam cũng trồng một lượng nhỏ catimor, một loại arabica. Sản lượng niên vụ 2012/13 tăng 6,25% so với một năm trước lên 850.000 bao.
Giá cả
Loại cà phê xuất khẩu phổ biến nhất của Việt Nam là robusta loại 2, 5% hạt đen và vỡ. Nó thường yết giá ở mức trừ lùi với giá robusta kỳ hạn của London do người mua muốn phòng hộ chống lại nguy cơ về thời điểm giao hàng và chất lượng hạt.
Các nhà xuất khẩu chuyển sang mức cộng với giá kỳ hạn London tính từ tháng 3/2013 và khoảng cách đó nới rộng lên tới 60 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11, từ mức 20 – 30 USD/tấn so với hợp đồng tháng 5 vào ngày 5/3.
Đối với cà phê niên vụ mới 2013/14, được chào bán vào hôm 3/9 với mức cộng 30 – 50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1, trong khi các hồ sơ dự thầu có mức từ trừ lùi lên tới 30 USD/tấn đến mức cộng 10 – 20 USD/tấn.
Xuất khẩu
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam có thể giảm xuống 80.000 – 90.000 tấn, hay 1,3 triệu đến 1,5 triệu bao trong tháng 9, giảm nhẹ so với mức 1,6 triệu bao hồi tháng 8, theo ước tính của chính phủ.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang hơn 80 nước và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Italy và Nhật Bản là các nhà nhập khẩu lớn nhất cà phê Việt Nam trong năm 2012.
(Nguồn: Reuters)