Nguồn: baotintuc.vn
Thu hoạch rau xanh cung cấp cho thị trường Hà Nội. Ảnh (tư liệu) minh họa: TTXVN
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội, năm 2023, Hà Nội có 124 cơ sở được cấp mã số vùng trồng với tổng diện tích 794,4ha; trong đó cây lúa có 56 cơ sở, với tổng diện tích 447,5ha; cây rau 27 cơ sở, 86ha; cây ăn quả 34 cơ sở, 231,4ha và cây dược liệu, hoa cây cảnh có 7 cơ sở, tổng diện tích 29,5ha. Chi cục cũng đã tiến hành kiểm tra, giám sát 43 cơ sở được cấp mã số vùng trồng nội địa, kết quả có 38 cơ sở bảo đảm duy trì mã số vùng trồng theo quy định, 5 cơ sở ghi chép nhật ký truy xuất nguồn gốc chưa đầy đủ.
Ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Văn Đức (huyện Gia Lâm - Hà Nội) cho biết, Hợp tác xã luôn thực hiện kiểm soát chéo để đảm bảo chất lượng nông sản như cam kết. Hợp tác xã hiện có 220ha trồng rau an toàn; trong đó có 26,9ha sản xuất theo quy trình VietGAP.
Ngoài tiêu thụ tại thị trường trong nước, hợp tác xã còn xuất khẩu từ 300 đến 500 tấn rau các loại mỗi năm sang các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc). Để quản lý vùng trồng rau an toàn, hợp tác xã đã thành lập các tổ nhóm có sự kiểm soát chéo lẫn nhau và mỗi hộ được cấp sổ nhật ký đồng ruộng, có cập nhật đầy đủ thông tin quy trình sản xuất (thời gian, cách sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu sinh học...).
Hiện nay, hợp tác xã cũng đã đầu tư, nâng cấp sản xuất thông qua việc áp dụng kỹ thuật và khoa học công nghệ, phát triển hệ thống nhà lưới, nhà màng, hướng đến sản xuất hữu cơ. Đồng thời, hợp tác xã liên kết với Dự án phát triển an toàn thực phẩm do Chính phủ Canada tài trợ để xây dựng thêm hệ thống số hóa quản lý kế hoạch sản xuất, hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử và nâng cấp chuỗi thực phẩm nông sản theo hướng bảo đảm an toàn theo chuẩn quốc tế.
Chị Phạm Thị Hương, thành viên Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Văn Đức cho biết, do trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP nên gia đình phải tuân thủ chặt chẽ quy trình kỹ thuật, bảo đảm thời gian cách ly khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tiến hành ghi chép nhật ký đồng ruộng, nhờ đó đầu ra tương đối thuận lợi. Đặc biệt, do được hợp tác xã tuyên truyền tập huấn vấn đề bảo vệ thương hiệu uy tín của sản phẩm rau an toàn Văn Đức nên các hộ thành viên rất ý thức việc giám sát chéo lẫn nhau, bao bì đóng gói, mã vùng trồng...
Lợi ích của mã vùng trồng đem lại cho người dân đã rõ nhưng thực tế vẫn còn nhiều nơi chưa quen canh tác, chưa có thói quen ghi chép nhật ký chăm sóc cây trồng nên khiến cho hiệu quả giám sát chất lượng sản phẩm còn hạn chế.
Theo bà Phùng Thị Thu Hương, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại và Xuất khẩu Green Path Việt Nam (quận Nam Từ Liêm - Hà Nội), các hợp tác xã và nông dân mới chỉ quan tâm đến cấp mới mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, mà chưa chú trọng đến duy trì, giám sát chéo lẫn nhau, dẫn tới một số sản phẩm không đáp ứng yêu cầu. Trong khi đó, để có mặt tại các thị trường “khó tính” như Mỹ, Australia…, các vùng trồng lúa gạo chất lượng cao của Hà Nội phải đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về nguồn gốc, vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Bà Lưu Thị Hằng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội cho biết, việc giám sát và sử dụng mã số vùng trồng còn khó khăn, do vùng sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, dẫn tới liên kết giữa đại diện vùng trồng với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu còn lỏng lẻo. Hệ thống các văn bản trong quản lý, sử dụng mã vùng trồng cũng như chế tài xử lý vi phạm chưa đầy đủ và vẫn còn hiện tượng sử dụng mã số chưa đúng...
Theo các chuyên gia nông nghiệp, cần phải nâng cao nhận thức về mã số vùng trồng cho người dân, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của các mặt hàng nông sản, vấn đề chất lượng, truy xuất nguồn gốc, vệ sinh, an toàn thực phẩm ngày càng trở nên quan trọng. Do đó, việc đăng ký, quản lý mã số vùng trồng là cơ sở quan trọng để khẳng định về chất lượng nông sản Hà Nội trên thị trường.
Thời gian tới, Hà Nội cần phối hợp với các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về mã số vùng trồng đối với nông sản chủ lực cho nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã. Cụ thể là hướng dẫn cấp mã số cho vùng trồng cây chủ lực; tập huấn, hướng dẫn thiết lập, quản lý mã số vùng trồng cho cán bộ quản lý nông nghiệp và các tổ chức, cá nhân tại các vùng sản xuất nông sản tập trung.
Cụ thể, các địa phương cần hướng dẫn quy trình thiết lập, cấp, quản lý, kiểm tra, giám sát các mã số vùng trồng phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu lĩnh vực trồng trọt cho các tổ chức, cá nhân; rà soát, thống kê các vùng sản xuất tập trung và ưu tiên cấp mã số vùng trồng đủ điều kiện.
Bên cạnh đó, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần quan tâm, chỉ đạo và bố trí đủ nguồn lực cho cấp, quản lý và giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu. Đồng thời, các địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra sau cấp mã số, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, tái phạm nhiều lần; tuyệt đối không cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật cho các lô hàng không tuân thủ.
Ngoài ra, các địa phương cần ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp thông tin về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói để phục vụ kiểm tra, giám sát và truy xuất nguồn gốc. Cục Bảo vệ thực vật cần chủ trì, phối hợp với các địa phương tăng cường hướng dẫn, tập huấn chuyên môn cho người dân, doanh nghiệp và cán bộ địa phương về những quy định của các nước nhập khẩu, nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Để quản lý tốt mã vùng trồng, ông Nguyễn Mạnh Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cho biết, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cũng kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần rà soát, sửa đổi các quy định đối với vùng sản xuất được cấp mã số vùng trồng, do các yêu cầu hiện nay giống với các điều kiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, gây khó khăn cho quá trình thực hiện và quản lý vùng sau khi được cấp. Cùng với đó, xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu Quốc gia thông tin sản lượng sản phẩm xuất khẩu, mã số vùng trồng; đối chiếu và giám sát chặt chẽ giữa sản lượng thu mua và sản lượng xuất khẩu, nhằm hạn chế mạo danh mã số vùng trồng, tăng cường minh bạch thông tin sản lượng xuất khẩu theo quy định.