Việc nâng giá của các nhà sản xuất gỗ dán nhằm bù đắp cho chi phí một số nguyên liệu đầu vào gia tăng, như nhựa thông và lớp gỗ mặt, trong khi trợ cấp xuất khẩu sẽ bị cắt giảm từ mức 13% xuống còn 11%. Ngoài ra, gỗ thông dán của Trung Quốc gần đây cũng chịu tác động từ sự giảm giá của gỗ thông dán elliotis Brazil nên các nhà cung ứng gỗ dán Trung Quốc bắt buộc phải giảm nhẹ giá bán mặt hàng này để duy trì tính cạnh tranh.
Số liệu gần đây nhất của Cơ quan Thống kê Liên hiệp quốc (Comtrade) cho thấy, Trung Quốc (tính cả Hồng Kông và Ma cao) đã vượt qua Italia để trở thành thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới trong năm 2005. Nhờ nhu cầu tiêu thụ tại thị trường trong và ngoài nước tăng vững, sản xuất đồ gỗ của Trung Quốc luôn duy trì được mức tăng trưởng ấn tượng trong thời gian qua. Giai đoạn 1999-2005, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Trung Quốc đã tăng 7 lần, tăng từ 932 triệu USD, lên đạt 7,15 tỷ USD, và khối lượng đồ gỗ xuất khẩu chiếm 1/4 tổng sản lượng trong năm 2005. Các thị trường tiêu thụ đồ gỗ chủ chốt của Trung Quốc là Mỹ (chiếm 50% giá trị xuất khẩu), Liên minh Châu Âu và Nhật Bản.
Được biết, xuất khẩu đồ gỗ của Italia tương đối ổn định với kim ngạch đạt khoảng 5 tỷ USD/năm trong giai đoạn 1995-2002. Trong thời gian này, xuất khẩu sản phẩm gỗ thứ cấp (SPWP) của Italia nhìn chung chịu ảnh hưởng bởi sự biến động giữa tỷ giá đồng Euro/USD và sự cạnh tranh mạnh mẽ của Trung Quốc, Ba Lan.
Sự phát triển mạnh mẽ về xuất khẩu đồ gỗ của Trung Quốc được tạo động lực bởi sự phát triển của ngành sản xuất SPWP. Năm 2003, Trung Quốc đã thay thế Italia để trở thành nước xuất khẩu SPWP lớn nhất thế giới.
Gần đây, Ban phụ trách mặt hàng gỗ (TC) thuộc Uỷ ban Kinh tế châu Âu của Liên hiệp quốc (UNECE) đã đưa ra báo cáo phân tích về tình hình thị trường các sản phẩm lâm sản của các nước thành viên UNECE, trong đó chú trọng đặc biệt đến tầm ảnh hưởng của Trung Quốc lên thị trường khu vực này. Theo TC, thị trường lâm sản khu vực UNECE đã đạt những bước tiến kỷ lục năm 2005 và dự đoán sẽ tiếp tụ đà tăng trưởng năm 2006 và 2007. Sự phát triển vượt bậc của ngành lâm nghiệp Trung Quốc và những ảnh hưởng không thể đoán trước của ngành này lên thị trường thế giới cùng với những tác động từ các yếu tố khác như sự thay đổi khí hậu, giá năng lượng tăng cao và lo ngại về hoạt động khai thác rừng không theo qui hoạch đã tạo ra những thách thức và cơ hội cho cả người tham gia thị trường và các nhà hoạch định chính sách. Các yếu tố này khi kết hợp với nhau sẽ tạo ra ảnh hưởng dẫn đến sự biến đổi thị trường lâm sản của khu vực UNECE, mà một trong những kết quả của quá trình này là sự cạnh tranh về nguyên liệu ngày càng gia tăng.
Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành nước xuất khẩu sản phẩm lâm sản lớn nhất thế giới tính theo giá trị và chỉ đứng thứ 2 sau Mỹ về nhập khẩu. Các cánh rừng của Trung Quốc hiện chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu đầu vào của ngành gỗ nội địa. Hiện nay, Trung Quốc là nước nhập khẩu gỗ khúc mềm và cứng lớn nhất thế giới. Nga là nước cung ứng gỗ khúc chính của Trung Quốc, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu thụ của nước này. Chỉ có một lượng nhỏ gỗ nhập khẩu của Trung Quốc có chứng nhận xuất xư,ù trong khi phần lớn gỗ được nhập từ những nguồn khai thác trái phép. Theo số liệu chính thức của Nga, Trung Quốc đã nhập khẩu 19,2 triệu m3 gỗ khúc từ nước này, nhưng các chuyên gia Nga cho rằng, ngoài số lượng trên còn một lượng lớn gỗ khúc được nhập khẩu từ vùng Viễn Đông là khai thác trái phép.
Với sự trợ giúp của chính phủ, việc đầu tư vào các công xưởng và vận tải đã góp phần dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành chế tạo các sản phẩm gỗ có giá trị cao, đặc biệt là đồ gỗ. Trong thập kỷ qua, kim ngạch xuất khẩu gồ gỗ của Trung Quốc ước đạt mức tăng trưởng bình quân 34%/năm. Trung Quốc đã trở thành nước cung ứng đồ gỗ lớn nhất cho thị trường Mỹ và đứng ở vị trí thứ 2 về xuất khẩu sản phẩm lâm sản sang Canada. Lợi thế đối với ngành gỗ Trung Quốc là chi phí nhân công rẻ có thể bù đắp cho sự gia tăng chi phí nguyên liệu, năng lượng và vận tải. Tuy nhiên, sự cạnh tranh đối với các sản phẩm gỗ giá rẻ của Trung Quốc cũng dẫn đến sự gia tăng các tranh chấp thương mại. Nhiều nhà cung ứng gỗ tại thị trường Mỹ, Canada, Đức và Italia đã đệ đơn khiếu kiện đối với các nhà xuất khẩu gỗ của Trung Quốc.
Song song với sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu, nhu cầu tiêu thụ nội địa sản phẩm gỗ của Trung Quốc (chiếm 75% sản lượng) cũng đang tăng lên cùng với mức sống của người dân. Các công ty sản xuất sản phẩm lâm sản thuộc khu vực UNECE đang phải đối mặt với sự chuyển biến mau lẹ của thị trường: một số công ty thành công trong việc tham gia đầu tư và kinh doanh với các đối tác Trung Quốc, trong khi các công ty khác thì không thể trụ vững khi doanh thu suy giảm. Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Trung Quốc và Đông Nam Á sang 5 thị trường lớn là Mỹ, Pháp, Đức, Anh và Nhật Bản thời gian qua đã đạt mức tăng trưởng mạnh. Ngành đồ gỗ Trung Quốc có nhiều lợi thế lớn như chi phí nhân công rẻ, các cơ sở sản xuất qui mô lớn hoạt động hiệu quả cao và cho ra sản phẩm chất lượng tốt. Trung Quốc chiếm lần lượt khoảng 43% và 33% kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của Mỹ và Liên minh Châu Âu. Hiện nay, Trung Quốc có thể được coi là nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới, vị trí độc tôn của Italia trong một thời gian dài.
Ngành sản xuất gỗ ván sàn Trung Quốc cũng đang tạo ra ảnh hưởng mạnh đến thị trường thế giới khi tích cực gia tăng thị phần tại châu Âu. Mặc dù vậy, gỗ ván sàn Trung Quốc tại châu Âu cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh từ sản phẩm phi gỗ và ván sàn nhập khẩu từ các thị trường khác. Riêng gỗ lót ván sàn, Trung Quốc đã tăng thị phần mặt hàng này tại châu Âu từ 10% năm 2000, lên đạt trên 35% năm 2005. Để giải toả các áp lực cạnh tranh, ngành gỗ ván sàn Trung Quốc đã thực hiện chiến dịch marketing nhằm khuyến khích người tiêu dùng sử dụng gỗ ván sàn thật thay vì sử dụng các vật liệu ván sàn khác.
Trong một diễn biến khác, Bộ Thương mại và Tổng Cục thuế Trung Quốc đã cùng phát hành thông tư về việc thu và hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với gỗ phế liệu và gỗ nội thất. Quyết định trên -có hiệu lực từ ngày 1/1/06-31/12/08- sẽ khuyến khích việc tận dụng và khai thác mọi nguồn gỗ và được áp dụng cho các loại gỗ phế liệu, gồm phụ phẩm từ cây lấy gỗ (như cành, vỏ, lá, rễ...) và phế liệu gỗ trong quá trình chế biến (như thanh gỗ, phụ phẩm của gỗ và tre, mạt cưa, lớp gỗ mặt hỏng, lõi gỗ...). Phế liệu gỗ nội thất bao gồm gỗ khúc thứ cấp có chất lượng kém, gỗ có đường kính nhỏ và gỗ khúc có chiều dài dưới 2m và đường kính nhỏ hơn 8 cm. Quyết định trên cũng quy định các doanh nghiệp đóng thuế phải đảm bảo sản phẩm có chất lượng đáp ứng được các tiêu chuẩn truớc khi áp dụng hoàn thuế VAT.