Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Tọa đàm “Phát huy vai trò cộng đồng trong thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn”
16 | 08 | 2023
Báo Nông nghiệp Việt Nam truyền trực tiếp buổi Tọa đàm “Phát huy vai trò cộng đồng trong thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn” dưới sự điều hành của Bộ trưởng Lê Minh Hoan; Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) cùng Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các Tổ chức quốc tế: JICA, UNDP, Ngân hàng Thế giới, FAO, ACIAR, IFAD, ADB, CIAT, IRRI, Helvetas, Quỹ Saemaul, ICRAF…

Nguồn: nongnghiep.vn

Nhằm đánh giá vai trò, vị thế, năng lực, sự cần thiết phải phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn; giới thiệu một số mô hình tiêu biểu. Bên cạnh đó, thảo luận phương pháp, cách tiếp cận và giải pháp phát huy vai trò cộng đồng trong phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững, Bộ NN-PTNT tổ chức Tọa đàm "Phát huy vai trò cộng đồng trong thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn" vào chiều 16/8, tại Hà Nội.

Chương trình được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan và Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI), nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát.

Bên cạnh đại diện các đơn vị thuộc Bộ NN-PTNT còn có các cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam...

Ngoài ra, tọa đàm cũng có sự tham dự của các tổ chức quốc tế liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như JICA, UNDP, Ngân hàng Thế giới, FAO, ACIAR, IFAD, ADB, CIAT, IRRI, Helvetas, Quỹ Saemaul, ICRAF...

Tại buổi tọa đàm, các đại biểu được lắng nghe nhiều tham luận về bản chất của cộng đồng và làm sao để phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn; các kinh nghiệm quốc tế trong phát triển cộng đồng; kinh nghiệm phát triển cộng đồng tại Việt Nam; thảo luận và chia sẻ một số mô hình phát triển cộng đồng ở một số tỉnh, thành phố…

Một số hình ảnh các đại biểu tham gia tọa đàm:

 

Bộ trưởng Lê Minh Hoan phát biểu tại tọa đàm 'Đã đến lúc cần hòa vào quỹ đạo chung của thế giới'

Phát biểu mở đầu tại tọa đàm, Bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định lại vai trò quan trọng của cộng đồng trong thực hiện chiến lược nông nghiệp, nông thôn.

Bộ trưởng cho biết, cuộc tọa đàm sẽ tiếp cận cộng đồng không phải là một mô hình, thiết chế mà là một tư duy, một cách tiếp cận mới mẻ. Bộ trưởng mong rằng những câu chuyện bàn luận tại tọa đàm hôm nay sẽ giúp hiểu chiều sâu và giá trị của cộng đồng để thoát ra khỏi tư duy hành chính. Từ đó, bên cạnh quản lý dựa vào công cụ pháp luật, thể chế, giờ đây có thể tiếp cận cách quản lý dựa vào cộng đồng.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, tư duy tiếp cận từ cộng đồng đã được khởi phát từ lâu nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc và khó khăn. Tọa đàm chính là để xem lại những định hướng và nội dung của cách tiếp cận cộng đồng.

“Một mô hình có thể thay đổi bằng một mô hình nhưng tư duy lại được kết tinh, chọn lọc từ những kinh nghiệm của thế giới. Đã đến lúc cần hòa vào quỹ đạo chung của thế giới, không chỉ tiếp cận theo chiều hướng từ trên xuống dưới mà cần cách nhìn đa chiều từ dưới lên trên, huy động thế mạnh của cộng đồng vào phát triển nông nghiệp”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết.

Ông Cao Đức Phát khẳng định phát triển nông nghiệp không phải là vì cây lúa hay con heo mà là vì nông dân là chính

Phát biểu khai mạc tại tọa đàm, ông Cao Đức Phát cho biết, các nhà kinh tế hay nói về chính sách, các nhà kỹ thuật nói về kỹ thuật và các nhà quản lý hành chính thường hay nói về các biện pháp hành chính, nhưng phát triển nông nghiệp không phải là vì cây lúa hay con heo mà là vì nông dân là chính. Vì thế, phát triển ngành nông nghiệp phải được coi là công tác nông vận, đồng thời kết hợp với chính sách và giải pháp hành chính.

Ông Phát nói thêm: “Bài học mà chúng ta rút ra mấy chục năm vừa qua là phải dựa vào nông dân, phát huy vai trò tập thể, doanh nghiệp thể để phát triển kinh tế tốt hơn. Làm thế nào để mục tiêu này đạt được hiệu quả cao hơn, đó là lý do chúng ta cùng ngồi đây để cùng chia sẻ trong tọa đàm hôm nay”.

Ông Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, có bài phát biểu rất tâm huyết về "vai trò cộng đồng với phát triển nông nghiệp, nông thôn"

Là một người có nhiều năm nghiên cứu và trăn trở với phát triển kinh tế cộng đồng, ông Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn mở đầu bài phát biểu bằng việc nhắc đến sự gắn bó giữa 3 thực thể là: cơ chế thị trường, Nhà nước và cộng đồng xuyên suốt chiều dài lịch sử.

Tại Việt Nam, cộng đồng là tập thể xã hội đặc trưng bởi không gian địa lý, các tương tác trực tiếp, liên kết nhau bằng tình cảm, giá trị đồng nhất và chuẩn mực ràng buộc chung. Cộng đồng nông thôn sống và làm việc gắn với địa bàn làng, thôn, bản, ấp..., những đơn vị dân cư đủ nhỏ để mọi người biết rõ và quan hệ chặt với nhau và đủ lớn để nhận diện khác biệt xã hội.

Cộng đồng, theo ông Sơn, thường sống chung nhiều thế hệ, ràng buộc bởi các mối quan hệ thân tộc, tập quán, tôn giáo; cùng chia sẻ công trình công cộng như đường xá, đình chùa, nghĩa trang, bến nước; dùng chung tài nguyên như khu rừng, đoạn sông, hồ nước...

Ngoài cộng đồng địa bàn, còn có thể chia ra các nhóm cộng đồng theo đặc điểm như hoàn cảnh kinh tế, huyết thống, giới tính, sở thích, mục đích... Ví dụ, cùng dân tộc, cùng tôn giáo, người nghèo, cựu chiến binh, người cao tuổi, người làm vườn... Xã hội nông nghiệp, quan hệ lâu dài, xử sự theo dòng giống, thứ bậc, uy tín, lịch sử gia đình, liên hệ đan xen thế hệ. Nhờ đó, quan hệ giao dịch bên trong trở nên ít rủi ro, chi phí thấp, được ưu tiên hơn với bên ngoài.

Với kết cấu tổ chức đặc biệt và các ưu điểm vượt trội như cần cù, tự lực, tôn sư trọng đạo, đề cao học vấn, kính trọng tuổi tác, gắn bó gia đình, đoàn kết xóm giềng, chấp hành hương ước,... suốt hàng ngàn năm đã giúp mở mang bờ cõi dân tộc, phát triển sản xuất, phòng chống thiên tai, bảo vệ tổ quốc. “Cộng đồng nông thôn thực sự là đơn vị tổ chức căn bản để tích lũy kinh tế và chuyển đổi xã hội đưa đất nước lên các bước phát triển cao hơn”, ông Sơn nhận xét.

Bên cạnh mặt mạnh, đặc điểm nhỏ hẹp, chậm thay đổi, cố kết chật hẹp của cộng đồng nông thôn cũng đem lại những điểm yếu cố hữu của tổ chức cộng đồng: tình trạng phe cánh, bè phái trong cơ quan; lựa chọn con người không theo năng lực mà theo tiêu chí họ hàng, thói quen đề cao quyền lợi phe nhóm dẫn đến tình trạng lợi ích nhóm…

Nhìn lại hàng nghìn năm lịch sử, những tổ chức trong xã hội xưa mang đậm tính chất cộng đồng. Quan viên làng xã miền Bắc và Trung có ba nhóm: kỳ mục, kỳ lão và kỳ dịch. Hội đồng “kỳ mục” là bộ phận chức sắc chỉ đạo bao gồm quan chức, sỹ tử, con quan, bàn bạc và quyết định mọi công việc. Nhóm “kỳ lão” cao tuổi là tư vấn. Nhóm “kỳ dịch” thi hành công việc Hội đồng kì mục giao. Những người đứng đầu luôn phải có danh vọng và là người bản địa.

Đến thời kỳ hiện đại, cộng đồng nông thôn ở Việt Nam có sự thay đổi. Năm 1945, lần đầu một tổ chức đại diện cộng đồng làng xã có tư cách pháp nhân được thành lập ở làng quê theo Sắc lệnh của Hồ Chủ tịch là “Hội đồng nhân dân xã” gồm 15-25 đại diện do dân trực tiếp bầu và có quyền giải tán. Hội đồng họp công khai hàng tháng “có quyền quyết nghị về tất cả các vấn đề” không trái với chỉ thị trên, nội dung cần huyện, tỉnh chuẩn y là thuê, mướn, mua, bán bất động sản, đóng góp, vay mượn, đầu tư, định thuế.

“Sắc lệnh trên đã thay thế bộ máy quan viên làng xã miền Bắc và miền Trung của chế độ phong kiến thành tổ chức quản lý dân chủ của cộng đồng nhân dân ở cơ sở”, ông Sơn nhấn mạnh. Nhờ những biến chuyển này, làng xã Việt Nam đã đóng góp hiệu quả trong quá trình chống đói, chống dốt, tham gia tổng tuyển cử xây dựng chính quyền mới và tiến hành kháng chiến, kiến quốc.

Ngay cả khi các cộng đồng dân cư chịu sự xáo trộn bởi các cuộc di tản, đưa dân đi kinh tế mới, hợp tác hóa, tiến hành tập thể hóa và công hữu hóa đất đai, vai trò của các tổ chức cộng đồng được thay bằng cơ quan hành chính và đoàn thể chính trị. Các hoạt động văn hóa truyền thống đình trệ, không gian làng quê không hề thay đổi.

Từ Đổi mới giữa thập kỷ 1980, bên cạnh cơ chế và tổ chức Nhà nước, thị trường ngày càng phát huy tác dụng: lao động nông thôn di cư ra đô thị, nhiều nhóm dân tộc thiểu số từ miền núi phía Bắc chuyển vào Tây Nguyên. Các chương trình tái định cư lấy đất xây dựng công nghiệp, đô thị ở đồng bằng và thủy điện ở miền núi trộn lẫn các cộng đồng với sinh kế, tập tục, tôn giáo, dân tộc khác biệt nhau gây mất cân bằng về tuổi tác, giới tính ở nhiều vùng.

Ông Đặng Kim Sơn nhìn nhận, rằng so với quan hệ thị trường và quan hệ trong Nhà nước, tổ chức cộng đồng nổi trội về khả năng bảo vệ lợi ích, đảm bảo dân chủ và bình đẳng kinh tế. Tuy nhiên, nếu cơ chế này độc tôn sẽ làm xã hội lạc hậu, thiếu sáng tạo, kinh tế trì trệ. “Tổ chức cộng đồng là một hệ sinh thái sống, bao gồm các cộng đồng nhỏ chủ động. Tổ chức cộng đồng hình thành trên những điều kiện cơ bản như được công nhận về pháp lý; có chương trình làm việc phục vụ quyền lợi cư dân và được họ giám sát minh bạch; đồng thời phải có năng lực phục vụ, có tài sản, cung cấp dịch vụ… giúp đỡ người dân”, ông chia sẻ.

Khi xã hội phát triển, một số đứt gãy trong cộng đồng phát sinh. Người dân và cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn chủ yếu là đối tượng thụ hưởng và thực hiện nhưng chỉ có vai trò bàn bạc mức đóng góp, tham gia các gói thầu, tham gia giám sát. Nhưng thiết chế cộng đồng không có tính pháp lý, cộng đồng làng xã không phải là một pháp nhân trong hiện tại.

Để phát triển lại mô hình cộng đồng nông thôn, ông Sơn cho rằng cần tổ chức ra đơn vị cộng đồng nhân dân như hiệp hội ngành nghề, tổ hợp tác, hội quán. Đồng thời, lấy hoạt động kinh tế phát triển tổ chức cộng đồng. Trong đó, HTX nông nghiệp đảm bảo cung cấp vật tư đầu vào, thu mua nông sản đầu ra và hỗ trợ dịch vụ phục vụ sản xuất; thay thế trung gian thương lái, đầu nậu. HTX phi nông nghiệp dẫn dắt kinh tế hộ phát triển ngành nghề. Vùng đồng bào dân tộc cho các tổ chức cộng đồng tham gia quản lý, khai thác dịch vụ trồng rừng, bảo vệ biên giới, bảo vệ môi trường và tổ chức sản xuất.

Vừa qua, Việt Nam đã kịp thời ban hành 3 Nghị quyết phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có Nghị quyết 19 về xây dựng kinh tế tập thể. Đây cũng là điều ông Sơn muốn kết luận: “Xây dựng cộng đồng vững mạnh làm nòng cốt phát triển nông thôn, sản xuất nông nghiệp”.

Bà Nguyễn Thị Thu Huyền: "Sự chủ động là yếu tố đầu tiên để phát triển cộng đồng"

Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc - UNDP chia sẻ, với tư tưởng xuyên suốt cộng đồng tham gia – làm chủ - hưởng lợi, với phương châm tư duy toàn cầu – hành động cơ sở, cộng đồng luôn là trung tâm, chủ đạo của Chương trình tài trợ nhỏ UNDP (SGP).

Trong hơn 30 năm qua, SGP đã tài trợ cho các tổ chức xã hội triển khai thành công nhiều sáng kiến cộng đồng về môi trường và cải thiện sinh kế cho người dân ở 136 quốc gia trong các lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn ngừa thoái hóa đất và hoang mạc hóa, quản lý rừng bền vững và quản lý rác thải, rác thải nhựa… SGP thực thiện 27.348 dự án, cung cấp tổng số 752,9 triệu USD. Hiện nay, có 1.771 dự án đang thực hiện với tổng số tiền tài trợ là 62,9 triệu USD.

Hoạt động ở Việt Nam từ năm 1999, với phương châm này, SGP đã tài trợ cho các tổ chức xã hội 183 dự án cộng đồng tại 45 tỉnh, thành phố. Trong đó, hỗ trợ hàng trăm cộng đồng trong bảo tồn và phát triển sinh kế dưới tán rừng (các loại cây thuốc), bảo tồn các giống, loài quý hiếm (rùa biển, voọc..), bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, san hô, sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu, quản lý rác thải, rác thải nhựa và du lịch cộng đồng.

"Các dự án cộng đồng có sức lan toả lớn, trong đó có nhiều dự án được nhân rộng với nguồn lực của các nhà tài trợ khác, các chương trình mục tiêu quốc gia. Qua đó, đã khẳng định rõ vị thế, vai trò của tổ chức cộng đồng, các tổ chức xã hội trong các vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển sinh kế bền vững", bà Huyền khẳng định.

Theo đại diện của UNDP, từ thực tiễn triển khai nhiều chương trình, dự án, có thể khẳng định một số vấn đề rất cơ bản và quan trọng.

Thứ nhất, chỉ khi nào cộng đồng tham gia chủ động, đầy đủ và làm chủ sáng kiến mới thật sự đem lại hiệu quả. Nói cách khác, với niềm tin, trao quyền cho các cộng đồng tham gia và hành động (từ giai đoạn thiết kế, tự thực hiện và làm chủ sáng kiến) là con đường dẫn tới thành công. Do đó, thúc đẩy việc trao quyền cho cộng đồng thật sự đang là một trong những chìa khóa để gắn kết, hun đúc tinh thần trách nhiệm với xã hội, môi trường và với thế hệ mai sau.

Thứ hai là phát triển sinh kế không thể không gắn với quản trị tài nguyên, tăng cường tiếp cận văn hóa và tôn trọng tri thức bản địa. Cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng dân tộc thiểu số có cuộc sống gắn bó với rừng, sinh sống dựa vào rừng. Rừng là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho cuộc sống hằng ngày. Rừng cũng là không gian văn hóa tín ngưỡng. Cộng đồng các dân tộc thiểu số với bản sắc văn hóa độc đáo, có các luật tục, tri thức bản địa hết sức đa dạng trong sử dụng tài nguyên rừng.

Thứ ba, phát huy tối đa nội lực cộng đồng thông qua du lịch và học tập phong phú và thiết thực. Du lịch nông thôn được xem là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vốn còn nhiều khó khăn. Kết nối giảng đường và đồng ruộng, làm thế nào để đưa sinh viên về cùng học tập, làm thế nào để phát huy tối đa nội lực cộng đồng, hài hòa giữa bảo tồn đa dạng sinh học, văn hóa và cải thiện sinh kế người dân, lại là bài toán không đơn giản. Du lịch học tập cùng cộng đồng được xem là một hướng đi rất phù hợp, hiệu quả và bền vững.

Và thứ tư, xây dựng năng lực cho các tổ chức xã hội và phát huy sức mạnh cộng đồng. Các tổ chức xã hội có thế mạnh là có mạng lưới hoạt động, gắn bó chặt chẽ với cơ sở, sống trong cộng đồng và hỗ trợ cộng đồng hiệu quả. Rất cần khẳng định vai trò của các tổ chức xã hội bằng việc hỗ trợ xây dựng năng lực cho các tổ chức xã hội, qua đó nhằm phát triển nguồn nhân lực tại chỗ cho phát triển bền vững cộng đồng.

Qua đó, bà Huyền cho rằng, để phát triển cộng đồng và phát huy hiệu quả sức mạnh và tiềm năng cộng đồng, cần tiếp tục đổi mới một số vấn đề. Trước hết, về tầm nhìn cần xuất phát từ đặc điểm, nhu cầu và sức mạnh cộng đồng để hành động thực thi chương trình, dự án một cách chủ động, lâu dài và bền vững.

Về mục tiêu, cần phát triển cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội thông qua các chương trình, dự án theo pháp luật trên nền tảng tâm lý, phong tục tập quán và truyền thống bản địa.

Ngoài ra, về phương châm, cần xác định hệ công cụ phù hợp; dựa vào các tổ chức chính trị xã hội, từng người và nhóm người; hành động theo tổ chức kết hợp với cá biệt một cách kiên trì và thiết thực; chú trọng về hướng dẫn và thực hành (từ chuyển giao, phối hợp đồng bộ từ điểm tới nhân rộng về diện); không qua loa, đại khái, không làm thay, không cào bằng về hỗ trợ, chính sách.

Ông Kwak Bu Sung - Giám đốc Văn phòng Đại diện Saemaul Foundation Việt Nam giải thích: Cần nâng cao tinh thần 'tự lực' của xã hội nông thôn Việt Nam

Chia sẻ về tinh thần Saemaul Undong, ông Kwak Bu Sung - Giám đốc Văn phòng Đại diện Saemaul Foundation Việt Nam giải thích, Saemaul Undong bắt nguồn từ tinh thần "Dure" (tổ chức lao động tập thể ở cấp làng) và "Pumasi" (trao đổi lao động giữa những người nông dân) ở Hàn Quốc trong triều đại Joseon. Là một cộng đồng kinh tế, Saemaul đã phát triển thành các hoạt động kinh tế để tăng thu nhập.

Ông Kwak nhìn nhận, nông thôn Việt Nam có một đặc điểm là duy trì ý thức cộng đồng mạnh mẽ dựa trên quan hệ họ hàng và sự phân tách địa lý. Vì vậy, trong các tinh thần “cần cù”, “tự lực” và “hợp tác” của Saemaul Hàn Quốc, “cần cù” và “hợp tác” có thể nói là truyền thống đã ăn sâu vào xã hội nông thôn Việt Nam, nhưng rõ ràng là “tự lực”, tức là các hoạt động kinh tế cần phải được đồng hành để tự giúp đỡ và phát triển.

Dự án Làng thí điểm Saemaul tại Việt Nam, Hợp tác xã Saemaul - một tổ chức cùng tiến hành các hoạt động kinh tế để có thể sống chung với nền kinh tế thị trường lớn, được thành lập và hoạt động tại mỗi làng, thành lập hội đồng khu vực và tổ chức đại hội toàn quốc để chia sẻ tinh thần và văn hóa Saemaul.

Quá trình phát triển cộng đồng trong dự án làng thí điểm Saemaul dựa trên 4 cấp độ. Thứ nhất, hình thành cộng đồng sản xuất bằng cách thành lập Hợp tác xã Saemaul ở mỗi làng và chia sẻ đất đai, lao động, tài sản, công nghệ và kinh nghiệm.

Tiếp theo, thành lập Hội đồng khu vực, Hợp tác xã Saemaul để chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ sản xuất chuyên biệt trong khu vực, đồng thời giao dịch nội bộ các sản phẩm nông nghiệp trong khu vực để xây dựng nền tảng cho việc hình thành một cộng đồng rộng lớn hơn.

Thứ ba là hình thành cộng đồng bán hàng bằng cách thành lập hội đồng quốc gia về Hợp tác xã Saemaul và bắt đầu các hoạt động tiếp thị chung và đảm bảo các đối tác kinh doanh đáng tin cậy (người bán).

Hình thành một cộng đồng như một chủ thể kinh tế và nhóm công nghiệp hoàn chỉnh bằng cách thiết lập hệ thống bán hàng trực tuyến/ngoại tuyến và các kênh phân phối được chia sẻ bởi Hiệp hội quốc gia hợp tác xã Saemaul và giới thiệu công nghệ thông minh.

Như vậy, dự án làng thí điểm Saemaul Việt Nam có mục tiêu cuối cùng là nâng cao thu nhập bằng cách tạo ra một hệ thống kinh tế chia sẻ Saemaul, và một số làng đã đạt được giai đoạn 3 trong 4 giai đoạn của nền kinh tế chia sẻ Saemaul.

Khi hệ thống kinh tế chia sẻ Saemaul được thiết lập và vận hành tự chủ, sự vắng bóng của kinh tế nông nghiệp quy mô lớn, vấn đề nhức nhối của nông nghiệp Việt Nam là quy mô sản xuất manh mún sẽ được giải quyết; đồng thời, khi trở thành một thành viên của hệ thống kinh tế thị trường thì năng lực cạnh tranh được bảo đảm và nền kinh tế phát triển bền vững sẽ đạt được. Khi đó, hệ thống kinh tế chia sẻ trở thành mô hình mẫu.

TS. Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, Bộ NN-PTNT cho biết: Phát triển cộng đồng dựa vào nội lực

Phát biểu tham luận, TS. Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, Bộ NN-PTNT cho biết, phương pháp phát triển địa phương dựa vào nội lực cộng đồng - phát triển cộng đồng dựa vào nội lực (Assets-Based Community Development - ABCD) là một phương pháp được bắt đầu ở Việt Nam từ năm 2008 tại Đại học An Giang do Học viện Quốc tế Coady - Canada tổ chức. Hiện nay, có ít nhất 18 tỉnh ở Việt Nam áp dụng ABCD trong xây dựng nông thôn mới.

Triết lý của ABCD bắt đầu từ “Cộng đồng có gì” để cùng nhau xây dựng cộng đồng của mình. Giá trị cơ bản ABCD là cộng đồng có thể “chèo lái” tiến trình phát triển một cách chủ động từ phát huy nguồn lực sẵn có để đáp ứng nhu cầu của mình và tạo ra các cơ hội phát triển. Người dân xây dựng cộng đồng theo hướng từ bên trong ra bằng nội lực. ABCD bắt đầu từ cấp thôn/xóm/ấp/từ một vài cá nhân nổi bật trong cộng đồng.

Ông Hải cho biết, ABCD khác với cách tiếp cận truyền thống là dựa trên nhu cầu bắt đầu từ cộng đồng cần gì để tìm những hỗ trợ từ bên ngoài. ABCD tập trung huy động “sự tham gia người dân và kết nối các nguồn lực. “Với cách tiếp cận của ABCD giúp người dân nhận diện được những nguồn lực tại cộng đồng, tự vận động, tự làm chủ quá trình phát triển”, ông Hải nói thêm.

Trên thế giới, phương pháp ABCD đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trong việc thực hiện các chính sách phát triển và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn. Mô hình của thế giới có triết lý ABCD khá thành công như Semaul Undong (Hàn Quốc).

Ở Việt Nam, nhiều tỉnh có mô hình triết lý ABCD như: Hội quán Đồng Tháp, An Giang; Nông hội Gia Lai; Ngôi nhà trí tuệ Hà Tĩnh; Tổ khuyến nông cộng đồng Kiên Giang. Đã có một những mô hình thành công trong việc áp dụng ABCD, như: HTX Đông Nghi, Tiền Giang, bắt đầu từ việc nuôi dê để lấy sữa, nhưng sữa dê khó bán, do đó đã hướng dẫn cộng đồng làm sữa chua ướt thành khô, bán dễ hơn… Điều đó cho thấy, việc áp dụng ABCD đã giúp đổi mới trong tổ chức sản xuất, lấy kinh tế hợp tác làm động lực để phát triển kinh tế hộ, liên kết doanh nghiệp.

Theo đó, ông Hải đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc áp dụng ABCD vào thực hiện chiến lược ngành nông nghiệp trong thời gian tới, như: Nâng cao sự đồng thuận cấp ủy, chính quyền, người dân về phương pháp ABCD và áp dụng; Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia ABCD cho các trường hiện có của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở các tỉnh, thành phố; Đào tạo giảng viên nguồn (Training of Trainers - ToT) các lãnh tụ thôn, ấp, bản (lãnh tụ cộng đồng); Phát triển nhiều tổ hợp tác, HTX làm nòng cốt để áp dụng; Ứng dụng công nghệ số tuyên truyền, quảng bá và nhân rộng.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hải chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển Khu bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải - Bản du lịch cộng đồng ngay Thành phố Thái Nguyên

Chia sẻ về một số kinh nghiệm và mô hình xây dựng, phát triển cộng đồng, bà Nguyễn Thị Thanh Hải chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển Khu bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải - Xóm Cường, xã Thịnh Đức, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Theo bà Hải, bắt nguồn từ lời hứa với người ông đã khuất, bà mong muốn giữ được phong tục, tập quán, các sản phẩm đồng quê có thể nuôi sống được con cháu, theo hướng tự cung cấp. Bà thừa nhận, khi bắt đầu làm, không nghĩ mô hình có thể thành công như hiện tại.

“Tôi muốn chia sẻ những mong muốn của người dân khi làm du lịch cộng đồng. Rất mong cán bộ quản lý tạo điều kiện, cơ chế, đặc biệt là tổ chức những buổi tọa đàm như hôm nay”, bà Hải nói.

Bà Hải cho biết, ý tưởng làm du lịch cộng đồng đến với bà từ khoảng 20 năm trước. Người Tày vẫn còn đó nhưng trang phục và những ngôi nhà sàn không còn giữ được hồn cốt như xưa, rất khó để tìm thấy một quần thể bản làng nào còn vẹn nguyên những ngôi nhà sàn, truyền thống văn hóa cũng bị mai một rất nhiều.

Theo người phụ nữ dân tộc Tày, cái khó nhất là nhận thức và yếu tố con người. Tuy xây dựng mô hình tại miền đất mới, bà Hải tự tin vì qua tiếp xúc với du khách thập phương, họ đánh giá rất cao văn hóa và đạo đức của bà con vùng đồng bào dân tộc.

Được sự động viên của gia đình, người thân, bà âm thầm lặn lội làm công việc mà nhiều người nói là “lấy muối bỏ biển”. Bà đã chắt chiu tài sản cá nhân mình mua lại những ngôi nhà sàn, sưu tầm hiện vật, sưu tầm vốn văn hóa phi vật thể đang có nguy cơ mai một hoặc thất truyền. “Có những đêm tôi cùng những người đồng hành phải ngủ lại giữa rừng để hôm sau tiếp tục hành trình tìm đến những ngôi nhà sàn có nguy cơ bị dỡ bỏ để sưu tầm lại đem về. Có những lúc hết tiền tôi phải đổi cho bà con bằng gạo, bằng chăn màn, đồ dùng thiết yếu để tôi xin giữ lại những gì bà con đang muốn bỏ đi”, bà Hải xúc động nhớ lại.

Trời không phụ lòng, ban đầu có một vài người, sau một vài nhà, chẳng mấy mà được cả một làng với cái tên được gọi là Khu bảo tồn làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải, gồm có 4 dân tộc anh em nhưng cùng đồng lòng làm bảo tồn văn hóa Tày ngay tại một vùng đất nghèo ngoại ô TP. Thái Nguyên.

Thời gian đầu, bà con phải đào nền nhà bằng tay, tất cả mọi việc đều làm thủ công, máy móc không vào được để hỗ trợ cho việc dựng nhà. Bà con phải tự chăn nuôi gia súc, gia cầm để làm thực phẩm cho mình, tự trồng cây keo để cải tạo đất, đào hố trên đồi…

Từ mục đích ban đầu xây dựng làng với mong muốn bảo tồn giữ gìn những ngôi nhà sàn truyền thống cùng văn hóa nhà sàn của dân tộc Tày, đến năm 2011, Khu bảo tồn làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải chính thức đi vào hoạt động du lịch. Dần dần, Bản làng Thái Hải đã được du khách gần xa quan tâm và biết đến. Bản làng cũng đã trở thành điểm đến thú vị đối với du khách trong nước và gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Hiện Khu Bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải đã trở thành ngôi nhà chung của hàng chục gia đình với hơn 150 người thuộc các dân tộc khác nhau như Tày, Nùng, Sán Chay, Kinh,... Tại đây, mọi hoạt động đều mang tính tự cung, tự cấp, thậm chí nguồn nước uống cũng được phục vụ riêng cho bản làng và du khách gần xa.Họ tự bảo tồn trồng và chế biến chè xanh, tự nấu rượu theo đúng quy trình đặc trưng của dân tộc Tày nhằm duy trì nguồn thực phẩm sạch và không gây tác động đến môi trường. Bản làng đã tạo dựng được quần thể với 30 ngôi nhà sàn, phục dựng gần như nguyên bản từ những cốt nhà cũ từ vùng An toàn khu Định Hóa, có cả một cộng đồng sinh sống trong sắc áo chàm, nghề truyền thống, lễ hội, các trò chơi dân gian, có những gia đình có 4 thế hệ cùng sinh sống.

Đến năm 2014, Bản làng Thái Hải là khu du lịch điển hình về xã hội hóa bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch và được công nhận là điểm du lịch địa phương. Năm 2016, 2017, ẩm thực Bản làng Thái Hải lọt vào top 10 nhà hàng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch hàng đầu Việt Nam, được vinh danh tại nhà hát lớn Hà Nội; Năm 2019 đạt danh hiệu “Top 5 Nhà hàng ăn uống phục vụ khách du lịch tốt nhất Việt Nam năm 2019”.

Tháng 11/2017, Bản làng được Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam cấp Bằng Bảo trợ cho Khu Bảo tồn làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải “Là công trình có giá trị bảo tồn Văn hóa truyền thống và giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc”.

Tháng 9/2018, Liên chi hội Di sản Văn hóa Khu Bảo tồn Làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải được thành lập. Từ năm 2018 - 2023, Khu bảo tồn làng nhà sàn dân tộc sinh thái Thái Hải đã 4 lần được vinh dự đón nhận giải thưởng Du lịch ASEAN.

Thông qua không gian tọa đàm chiều 16/8, bà Hải cảm ơn Bộ NN-PTNT, mà trực tiếp là Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã tạo cơ hội, điều kiện để bà chia sẻ câu chuyện về bản làng tới đông đảo mọi người.

Ông Huỳnh Quang Huy, Chủ tịch Hội nghề cá Bình Thuận cho biết: Cộng đồng tham gia bảo vệ, khôi phục nguồn lợi thủy sản ở Bình Thuận

Ông Huỳnh Quang Huy, Chủ tịch Hội nghề cá Bình Thuận cho biết, địa phương từng có nguồn lợi thủy sản lớn, là một trong ba ngư trường trọng điểm của cả nước nhưng đến một giai đoạn, biển của Bình Thuận không còn gì.

“Có giai đoạn, chúng tôi khảo sát 5 năm liên tục nhưng 100 m2 khảo sát không có một con gì. Bà con ngư dân lúc đó rất bức xúc, họ nói các ông giữ biển như vậy con cái còn gì mà ăn”, ông Huy kể lại.

Theo ông Huy, đây là hệ quả của việc nhiều chủ trương quản lý không còn hiệu quả và quá tải, cụ thể, Bình Thuận có 172 km đường biển nhưng chỉ có 3 tàu kiểm ngư mà tốc độ chỉ đạt 7 hải lý/giờ, trong khi tàu đánh cá tốc độ lên đến 14 hải lý/giờ, không thể kiểm soát nổi.

Do đó, mô hình giao cho ngư dân tự quản lý, phục hồi nguồn lợi thủy sản được ra đời. Điều này vừa khắc phục sự quá tải, vừa đáp ứng mong mỏi của ngư dân về việc cơ quan quản lý phải vào cuộc.

“Ban đầu, tôi mất 30 buổi uống cà phê mới kiếm được 5 ngư dân tham gia vào dự án giữ biển, từ đó lên 10 người, thành lập ban vận động hình thành cộng đồng để giữ biển vào năm 2013”, Chủ tịch Hội nghề cá Bình Thuận cho biết.

Quá trình lo thủ tục để thành lập cộng đồng này, phải thông qua 37 văn bản với 4 lần phản biện và thời gian đầu triển khai rất khó khăn vì không có nguồn lực, ngư dân nhiều người còn không tin tưởng.

Nhưng chỉ sau 2 năm nỗ lực, cộng đồng này đã phát huy hiệu quả: “Lượng giã cào, xâm phạm giảm 90%”, ông Huy nói. Năm 2015, khi khảo sát, chỉ 1 m2 đã có 426 đối tượng thủy sản và người dân cũng đã hiểu được bảo tồn là thế nào, tác dụng ra sao, phục hồi được nguồn lợi thủy sản.

Với sự hỗ trợ của UNDP, Bình Thuận triển khai được 3 dự án cộng đồng như vậy, quản lý 43 km2, dọc theo bờ biển của một huyện. Từ năm 2017 đến nay, sau khi nguồn hỗ trợ của UNDP kết thúc, các mô hình vẫn hoạt động hiểu quả, người dân ngày càng tự giác tham gia.

“Năm 2015, có những đêm ngư dân làm cả năm không kiếm nổi 500.000 đồng nhưng bây giờ, có đêm kiếm được đến 10 triệu đồng từ thủy sản. Đặc biệt, từ năm 1976 đến nay, tôm bạc mới xuất hiện trở lại, đây là loài có giá trị kinh tế rất cao”, ông Huy thông tin thêm tại hội nghị.

Đây là kết quả của việc người dân tham gia vào cộng đồng bảo vệ, phục hồi nguồn lợi thủy sản, cụ thể là làm cội chà thả xuống biển để tôm cá có nơi phát triển. Nếu như thời gian đầu rất nhiều người lên án việc thả cội chà, cho rằng ảnh hưởng đến giao thông biển thì bây giờ ngư dân còn tự bỏ tiền làm cội chà để thả xuống biển, tái tạo nguồn tôm cá.

Theo ông Huy, để phát triển quy mô của cách làm này, có thể huy động nguồn từ Quỹ bảo vệ nguồn lợi thủy sản để khuyến khích cộng đồng. Bên cạnh đó, cần xây dựng sinh kế bền vững cho cộng đồng, có thể phát triển du lịch sinh thái. “Nhưng cần thêm sự đầu tư, có sự tham gia của doanh nghiệp để các hoạt động này hiệu quả và bền vững”, Chủ tịch Hội nghề cá Bình Thuận nhấn mạnh thêm.

Ông Trần Phú Hậu, xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp giới thiệu về mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng đa tầng gắn với du lịch - Giúp người dân hiểu được giá trị của cộng đồng đồng quản lý

Phát biểu kết luận sau phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ NN-PTNT chiều 15/8, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ có nhắc tới từ “cộng đồng”, phát triển cộng đồng đồng quản lý. Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng đây là gợi ý để ngành nông nghiệp đi tiếp, bắt đầu từ nội lực cộng đồng, sáng kiến tạo ra để thu hút nguồn lực bên ngoài, trong đó có nguồn lực của Nhà nước. Bộ trưởng cho rằng cần thuyết phục người dân để họ hiểu rằng mô hình hội quán là sản phẩm của người nông dân và cần phải giúp người dân hiểu được giá trị của hội quán.

Tại tọa đàm, ông Trần Phú Hậu, xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp giới thiệu về mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng đa tầng gắn với du lịch cộng đồng trải nghiệm nông nghiệp của Minh Tâm hội quán xã Mỹ Xương.

Minh Tâm hội quán xã Mỹ Xương được thành lập vào ngày 9/9/2016 trên tinh thần tự nguyện, tự gắn kết để trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất và mua bán sản phẩm với nhau cùng các lĩnh vực khác trong cuộc sống, từ đó đến nay đã tập hợp hơn 80 thành viên tham gia sinh hoạt định kỳ hàng tháng; đã khẳng định được vai trò của mình trong việc tập hợp nông dân cùng nhau bàn bạc về thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế gia đình, xử lý xoài hữu cơ, nghịch vụ, cách phòng trừ sâu bệnh trên vườn xoài, nhất là áp dụng quy trình sản xuất theo hướng VietGAP, GlobalGAP, cùng nhau hỗ trợ nhau nhiều mặt trong đời sống,...

Hội quán đã nhiều lần chuyển giao khoa học đến nông dân, giới thiệu những giải pháp để tổ chức sản xuất hiệu quả gắn với biến đổi khí hậu, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân tại địa phương như dịch vụ Cây xoài nhà tôi, cho phép ứng dụng nhật ký điện tử thông qua mã QR trên phần mềm facefarm; triển khai Nhật ký điện tử; xây dựng ứng dụng công nghệ số trong quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm xoài Cao Lãnh, thương mại hóa sản phẩm “Cây xoài nhà tôi” để quảng bá thương hiệu đến với người tiêu dùng một cách rộng rãi…

Hiện nay Mỹ Xương không chỉ có sản xuất xoài độc canh mà còn sản xuất kinh tế theo hướng tích hợp đa giá trị. Cụ thể, với 5.000m2 vườn xoài nhà tôi vừa sản xuất xoài an toàn theo hướng hữu cơ và tận dụng những khoảng trống để trồng rau nuôi thỏ, lấy phân thỏ ủ phân hữu cơ bón lại cho cây xoài, dưới ao tận dụng phế phẩm từ trái xoài để nuôi ốc bươu đen tăng thu nhập.

Tháng 7/2022, Mỹ Xương đã ra mắt mô hình du lịch cộng đồng trải nghiệm nông nghiệp với 4 hộ tham gia, phục vụ du khách tham quan trải nghiệm sản xuất nông nghiệp; ngay khi ra mắt Làng du lịch, Ủy ban nhân dân xã đã quan tâm thành lập trang fanpage: Làng du lịch trải nghiệm nông nghiệp Mỹ Xương trên mạng xã hội Facebook và Zalo (Trang thông tin xã Mỹ Xương) để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Làng du lịch.

Trong thời gian tới, Hội quán sẽ tiếp tục đồng hành cùng chính quyền địa phương để tham gia các mô hình sản xuất mới hiệu quả, góp phần chung tay xây dựng, phát triển xã nông thôn mới trong năm tới.

Ông Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết: Phát triển cộng đồng cần dựa trên liên kết về kinh tế

Ông Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết, chăm chú lắng nghe các bài tham luận, và những cách làm hay về phát triển cộng đồng tại địa phương. Trong đó, ông đặc biệt quan tâm tới vấn đề nhân rộng những mô hình.

Theo ông, để làm được phải xây dựng và phát triển được yếu tố con người. Đó có thể là cá nhân, hoặc một nhóm người trong cộng đồng có nhu cầu. Họ cần sự hợp tác, liên kết, đồng thời cần có sự dẫn dắt của cán bộ quản lý, cùng với đó là sự quan tâm đến văn hóa, phong tục, tập quán để thay đổi cuộc sống, nếp nghĩ của người dân trên địa bàn.

Để làm được, ông Văn cho rằng cần sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ hơn nữa. Lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk tin, người Việt Nam có tinh thần tương thân tương ái, cũng như luôn có sợi dây liên kết, hợp tác và gặp gỡ lẫn nhau. Do đó, nếu có thể khơi được đúng mạch nguồn, việc phát triển cộng đồng hoàn toàn có cơ sở.

“Để xây dựng được mô hình cộng đồng tốt không thể quên sự liên kết và giúp đỡ nhau về phát triển kinh tế, nhất là những vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, ông chia sẻ.

Lấy ví dụ tại Đắk Lắk, nơi đang chủ trương xây dựng những vùng nguyên liệu lớn, giúp người dân có nghề và ổn định sản xuất, ông Văn nhìn nhận, rằng nhu cầu đảm bảo cuộc sống là rất cấp bách với đại bộ phận người dân.

Bên cạnh những mô hình về văn hóa, du lịch, ông Văn đánh giá, phát triển cộng đồng rất cần sự ổn định từ sinh kế, trong đó không thể không kể tới vai trò của nông nghiệp.

Ông Nguyễn Phước Thiện phát biểu sẽ cố gắng nhân rộng các mô hình cộng đồng trong thời gian tới

Bắt đầu buổi thảo luận, ông Cao Đức Phát nói, từ đầu buổi tọa đàm đến giờ, chúng ta đã nghe nhiều minh chứng cho tính hiệu quả của các mô hình cộng đồng. Tôi muốn đặt một câu hỏi là “Chúng ta nên làm gì để hỗ trợ, nhân rộng những mô hình hay, thành công ở các địa phương, thôn bản trên khắp Việt Nam?”

Ông Nguyễn Phước Thiện, Phó Chủ tịch UBND Đồng Tháp bày tỏ lòng ngưỡng mộ, trân quý đến các mô hình cộng đồng, đến những người đã có những đóng góp, hy sinh vì sự phát triển của các mô hình này.

Ông Thiện cho biết, thời gian tới, Đồng Tháp sẽ rà soát lại, cố gắng nhân rộng các mô hình cộng đồng trên tinh thần học hỏi, rút kinh nghiệm từ các mô hình đã thành công. Địa phương sẽ chỉ đạo các ngành, các cấp, trước mắt là ngành thủy sản, học hỏi kinh nghiệm của Bình Thuận để sớm có những giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản một cách hiệu quả.

Ông Hoàng Gia Long, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang cho biết: Hà Giang đang tích cực phát triển du lịch cộng đồng, phát huy bản sắc dân tộc thiểu số

Ông Hoàng Gia Long, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang cho biết, tỉnh đang có các mô hình phát triển du lịch cộng đồng rất hiệu quả. “Hà Giang đang có 16 làng du lịch cộng đồng với đặc thù riêng nhưng tinh thần chung là du lịch cộng đồng xung quanh các sản phẩm OCOP, phát huy bản sắc dân tộc thiểu số”, ông Long cho biết.

Theo đại diện UBND tỉnh Hà Giang, nhờ có sự quảng bá, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông mà tỉnh mới có được những thành công bước đầu này.

Tuy nhiên, để nhân rộng hơn các mô hình này, ông Long cho rằng cần thêm nhiều yếu tố, nhiều đơn vị cùng tham gia. Theo đó, trước hết cần có sự tập trung của người dân, cần giao thông thuận lợi, cần định hướng từ các cơ quan quản lý và cần thêm sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.

Những yếu tố này, theo ông Long, sẽ giúp các cộng đồng có thể xây dựng được mô hình du lịch và sau đó là kết nối rộng rãi hơn trong thời gian tới.

TS. Chu Tiến Quang cho biết: Cần hành trang pháp lý để phát triển hình thức cộng đồng

Phát biểu tham luận, TS. Chu Tiến Quang cho biết, chúng ta đã nói nhiều về các hình thức tổ chức kinh tế nhưng lại nói rất ít về các hình thức cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức này đang hình thành và rất sinh động.

Tại tọa đàm, TS. Chu Tiến Quang đặt ra câu hỏi: “Chúng ta cần cơ chế, thể chế, pháp luật cho cộng đồng phát triển trong khi có nhiều cơ chế, pháp luật cho các loại hình tổ chức khác” và “Tới đây có cần cơ chế, thể chế cho hình thức cộng đồng một cách cụ thể để đảm bảo cho phát triến bền vững hay không?”.

Theo ông Quang, Bộ Kế hoạch Đầu tư đang giúp Chính phủ triển khai các chính sách theo Luật Hợp tác xã, nhưng làm thế nào để thể chế hóa các quy định trong Luật Hợp tác xã, tránh tác động nghịch lại sự phát triển là một vấn đề. Trong khuôn khổ Bộ NN-PTNT đã có đề tài xây dựng chính sách xã hội dân sự Việt Nam song đề tài chỉ đánh giá tổ chức quần chúng và vài tổ chức xã hội chính trị chưa đi được vào chi tiết.

“Cần có sự tổng kết đích đáng, cụ thể để tìm ra 'chân tơ kẽ tóc' cho sự phát triển của các cộng đồng để có thực chứng, từ đó đề xuất hành lang phát triển lâu dài”, ông Quang cho biết.

PGS. TS Trịnh Văn Tùng, Viện Lãnh đạo học và Chính sách công, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đề nghị xây dựng chính sách hỗ trợ cộng đồng

Qua buổi tọa đàm về phát huy vai trò cộng đồng, PGS. TS Trịnh Văn Tùng, Viện Lãnh đạo học và Chính sách công, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng Bộ NN-PTNT đã chọn rất trúng và rất đúng vấn đề. Ông cũng chia sẻ 5 giá trị thu được qua sự kiện.

Một là, chia sẻ giá trị chung và vấn đề chung. Bởi khi ấy, con người trong cộng đồng sẽ có một mục tiêu chung.

Hai là, trao quyền cho người nông dân nói riêng và người dân trong cộng đồng nói chung. Ông Tùng tin, việc trao quyền không đơn thuần là quản lý hành chính mà còn là để người dân bàn bạc, tự xây dựng về sinh kế.

Ba là, sự tôn trọng đối với cộng đồng.

Bốn là, sự tin tưởng cộng đồng. Theo ông Tùng, giá trị cộng đồng rất lớn nhưng cần kích hoạt và xây dựng thêm những giá trị mới.

Năm là, trách nhiệm chung và trách nhiệm cho tương lai của cộng đồng.

Theo quan điểm của ông Tùng, qua quá trình khai thác và chiêm nghiệm tại các cộng đồng trên cả nước, ông muốn cắt nghĩa lại về sự giàu có. Ông nhìn nhận, giàu có là sự sinh sôi của muôn loài. Và để có được điều ấy, ông nhấn mạnh: “Phải nhờ sự phát triển của cộng đồng, từ đó mới tạo điều kiện để tất cả sinh vật có thể phát triển, giữ gìn đa dạng sinh học”.

Bên cạnh 5 giá trị kể trên, tổ chức cộng đồng, học tập cộng đồng, dựa vào cộng đồng và phát triển cộng đồng sẽ có cơ hội để xây dựng, và làm giàu có thêm. Thông qua những quá trình tự học, như trường hợp của bà Hải ở Thái Nguyên, trí tuệ của cộng đồng được làm giàu thêm. “Quá trình phát triển cộng đồng, tự nó, đã giúp tích hợp thêm nhiều giá trị”, ông Tùng chia sẻ.

Kết lại, ông Tùng kiến nghị Bộ NN-PTNT nghiên cứu, xem xét xây dựng một chính sách hỗ trợ phát triển cộng đồng. Ông Tùng cho rằng Bộ NN-PTNT có thể mở rộng chính sách này lên các cơ quan liên ngành, hoặc có thể tham mưu, trình Chính phủ ban hành thành một Quyết định.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy nêu 3 trụ cột chính để phát triển cộng đồng

Với câu hỏi của ông Cao Đức Phát, ông Hoàng Trọng Thủy, chuyên gia nông nghiệp có 4 ý kiến ngắn. Thứ nhất, Nhà nước phải xác định đây là chương trình, phải có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế cộng đồng. Nếu không phải là chương trình, chỉ đầu tư theo gói hỗ trợ thì chỉ trong vòng 1 - 2 năm, sau đó rút ra thì mô hình và sự phát triển của nó sẽ không bền vững.

Thứ hai, địa phương cũng phải bố trí vào chương trình, phải đưa vào đào tạo cho các cán bộ chủ chốt ở trong trường chính trị. Nếu chỉ tuyên truyền qua tài liệu mà bản thân các cán bộ không thông, không quyết thì khó có thể đi vào cuộc sống, bởi khi đã nói đến phát triển cộng đồng thì phải nói đến triết lý của hợp tác, khi đạt được phẩm cấp nào đó thì người ta mới dám hy sinh cho cộng đồng. Cho nên gỡ đầu tiên và thay đổi tư duy phải là thay đổi tư duy của cán bộ, chứ không phải của người dân.

Thứ ba, cần sự vào cuộc của các tổ chức chính trị. Các tổ chức ở phía địa phương như hội nông dân, thanh niên rất quan trọng trong tuyên truyền, vận động. Ông Thủy cho rằng, không nên tham làm lớn, cần nghĩ rằng phát triển cộng đồng nên dựa trên ba trụ cột chính “Sống tình nghĩa - Tự tin để hòa nhập - Tăng cường hợp tác”.

Và thứ tư là phát triển các hợp tác xã tiêu dùng, hợp tác xã ngành nghề, đây là cơ sở tốt nhất để bám được vào nguyện vọng của người dân. Ông Thủy khẳng định, khi thực hiện được những khâu này thì chắc chắn có chuyển biến tốt.

Ông Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) nêu ra 5 yếu tố để có thể phát triển được các mô hình cộng đồng hoạt động hiệu quả.

Sau khi lắng nghe ý kiến từ các chuyên gia, ông Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) nêu ra một số yếu tố để có thể phát triển được các mô hình cộng đồng hoạt động hiệu quả.

Đầu tiên, ông cho rằng cần có nhận thức rõ ràng và đúng đắn trong các cộng động về mục tiêu muốn hướng đến. Thứ hai, cần có sự quan tâm, ủng hộ từ các lãnh đạo địa phương, điều này là yếu tố quan trọng, tạo thuận lợi cho các cộng đồng phát triển.

Yếu tố tiếp theo mà ông Cao Đức Phát nêu ra là có định hướng rõ ràng, từ cấp Trung ương đến cơ sở, đến từng thôn, từng xóm để có thể phát triển đúng hướng. Yếu tố thứ tư là cần có cán bộ, có nhân lực nòng cốt để thực hiện, những nhân tố này phải có tâm huyết và “tốt nhất là đã được đào tạo, có kiến thức từ trong nước và quốc tế để làm việc hiệu quả hơn”.

Yếu tố quan trọng cuối cùng mà Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) nêu ra để phát triển các mô hình cộng đồng đó là phải có môi trường chính sách, pháp lý thuận lợi, trong đó quan tâm đến việc trao quyền cho các cộng đồng để bà con có thể phát huy khả năng của mình.

Kết thúc tọa đàm, bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định 'Tư duy nội lực từ dưới lên mới là tư duy bền vững'

 

Nói về mô hình hội quán, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết các chương trình nâng cao năng lực cộng đồng được các tổ chức phi chính phủ tập trung triển khai tại Việt Nam (ví dụ nâng cao năng lực cộng đồng trong tạo sinh kế cho người dân, nâng cao năng lực cộng đồng cho phụ nữ…).

Lấy ví dụ về nâng cao năng lực cộng đồng ứng phó bão lũ, Bộ trưởng đặt ra câu hỏi, mỗi năm mùa lũ đến đều có chỉ đạo từ Trung ương, huyện, xã xuống nông dân nhưng câu hỏi đặt ra là sao chúng ta chưa làm ngược lại?

“Vì sao chúng ta không để cho cộng đồng người dân tự lập kế hoạch phòng chống thiên tai, tập cho bà con lập kế hoạch. Khi cộng đồng người dân đã làm hết sức thì mới tính đến lập kế hoạch vận động sự tham gia của xã hội. Tư duy nội lực từ dưới lên mới là tư duy bền vững”, Bộ trưởng cho biết.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, các tiếp cận từ cộng đồng là một trong những hướng đi trong quá trình thay đổi tư duy, cách quản trị xã hội. Cộng đồng xã hội cân bằng hạn chế của Nhà nước và thị trường và là cốt lõi trong tam giác phát triển Nhà nước - thị trường - xã hội.

Bộ trưởng cho rằng, việc không tận dụng nguồn lực từ các cộng đồng có thể tạo ra một sự trông chờ, ỷ lại, làm tê liệt sáng kiến, sáng tạo và năng lượng trong cộng đồng. Như vậy, cần kích hoạt sự tham gia của các cộng đồng, như thành lập các hội quán để kích hoạt sự tham gia, tự chủ và tự lực của cộng đồng. Bộ trưởng cho rằng sự thành lập của các hội quán đã chứng minh được thực tế rằng việc tạo ra một không gian cộng đồng để người dân có thể làm chủ, trực tiếp đóng góp ý kiến, sau đó có thể lôi kéo được sự tham gia của các tổ chức quốc tế, chuyên gia, trường đại học….

Bộ trưởng cũng cho rằng, cần có thiết chế, thiết lập bài bản các chuyên đề, giáo trình để phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, những giáo trình này cũng cần dễ hiểu, dễ tiếp xúc đối với người dân để mô hình cộng đồng có thể được thẩm thấu và lan tỏa hiệu quả tại các địa phương. Từ đó, huy động nguồn lực của doanh nghiệp, giúp giải bài toán thị trường.

 



nongnghiep.vn
Báo cáo phân tích thị trường