Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Ấn Độ: Khủng hoảng của các tổ chức sản xuất cao su tại Kerala
01 | 01 | 2026
Ấn Độ là một trong những quốc gia sản xuất cao su thiên nhiên (NR) hàng đầu thế giới, đóng góp 5,4% sản lượng toàn cầu năm 2023 (FAO, 2025). Từ quốc phòng, y tế, công nghiệp, đặc biệt là sản xuất lốp xe đến đồ chơi, cao su thiên nhiên không chỉ là một mặt hàng thương mại quan trọng mà còn là tài nguyên chiến lược mang tầm lợi ích quốc gia. Trớ trêu thay, những người nông dân trồng loại cây có nhu cầu cao này lại đang mắc kẹt trong một cấu trúc thị trường mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt tại Kerala, trung tâm của ngành cao su Ấn Độ.

Nguồn: downtoearth.org.in

Sagging solidarity: There is a crisis facing Kerala’s rubber producer societies

Một đồn điền cao su ở Kerala, Ấn Độ. Ảnh: iStock

Phần lớn cao su của Ấn Độ đến từ nông hộ nhỏ, với hơn 1,3 triệu hộ canh tác trên diện tích trung bình chỉ 0,57 ha. Những người trồng này phải đối mặt với thị trường mua chi phối (oligopsony), nơi khoảng 36 tập đoàn sản xuất lốp xe lớn có ảnh hưởng đáng kể. Trong bối cảnh này, nông hộ nhỏ thường phải đi qua một tầng nấc trung gian phức tạp với các mối quan hệ thị trường chồng chéo, khiến họ rơi vào thế bất lợi.

Để đối phó với sự mất cân đối đó, Hội đồng Cao su Ấn Độ đã khởi xướng Các Tổ chức Sản xuất Cao su (Rubber Producer Societies – RPSs) từ năm 1986. một mô hình tập thể dân chủ của người trồng nhằm trao quyền cho nông hộ nhỏ thông qua hạ tầng dùng chung, cơ sở chế biến và tiếp thị theo nhóm. Theo thời gian, RPSs phát triển mạnh, đặc biệt tại Kerala. Đến năm 2000, cả nước có 2.093 RPSs. Tuy nhiên, từ đó mô hình bắt đầu trì trệ. Hai thập kỷ sau, tăng trưởng gần như dừng lại: khoảng 20% RPSs đã ngừng hoạt động, 35% khác hoạt động kém hiệu quả. Hội đồng Cao su đã thu hồi phê duyệt đối với 336 tổ chức năm 2020-2021, 111 tổ chức năm 2021–2022 và 89 tổ chức năm 2022–2023. Sự suy giảm này đặt dấu hỏi lớn về tính bền vững dài hạn của một mô hình từng được coi là nền tảng của trao quyền hợp tác trong ngành cao su.

Trong thực tế, nhiều RPSs nay đã bộc lộ dấu hiệu mệt mỏi thể chế. Trong 99 tổ chức được khảo sát tại 6 huyện của Kerala, chưa đến một nửa còn tham gia thu mua và bán cao su trong những năm gần đây; ít hơn nữa sở hữu hạ tầng cơ bản như văn phòng, cân, kho chứa.

Doanh thu bình quân hằng năm của một RPS khoảng 250.000 rupee (≈ 3.000 USD), trong đó hơn 85% đến từ bán cao su và vật tư. Tuy nhiên, với gần 27% RPSs, hơn một nửa thu nhập lại đến từ nguồn không bền vững như trợ cấp, vay, hỗ trợ. Cơ cấu chi tiêu cho thấy chi phí vận hành cao, khiến nguồn lực cho đầu tư phát triển (đào tạo, bảo dưỡng thiết bị, đa dạng hóa) rất hạn chế.

Đáng chú ý là sự thay đổi bản chất hoạt động của RPSs. Phần lớn hiện nay vận hành như đại lý thông thường, thu mua mủ hoặc đông tụ tại vườn (dạng giá trị thấp), hầu như không gia tăng giá trị, rồi bán cho công ty RPS hoặc người mua tư nhân. Các sản phẩm giá trị gia tăng như cao su khối hay cao su tấm hun khói (RSS) vẫn ngoài tầm với do thiếu vốn, cơ sở chế biến hoặc hỗ trợ kỹ thuật.

Dù độ bao phủ rộng (RPSs bao phủ gần 80% người trồng tại các phường khảo sát), tỷ lệ tham gia tích cực dưới 50%. Nhiều thành viên không dự họp, không đóng góp, thậm chí không thấy lợi ích kinh tế từ tư cách thành viên. Chương trình Khuyến khích Sản xuất Cao su năm 2015 có làm tăng số lượng thành viên, nhưng không kéo theo tham gia thực chất.

Hồ sơ thành viên cho thấy lãnh đạo già hóa và thiếu gắn kết: 72% trên 50 tuổi, nhiều người là nghỉ hưu trồng cao su bán thời gian; chỉ 37% hoàn thành trung học phổ thông. Phụ nữ, nhóm SC/ST và nông dân toàn thời gian bị đại diện thấp, làm trầm trọng bất bình đẳng nông thôn. Thiên lệch nhân khẩu học này khiến RPSs kém thích ứng với biến động thị trường và công nghệ, đồng thời làm suy yếu tinh thần hành động tập thể.

Một ví dụ điển hình là tỷ lệ thấp các hoạt động chế biến theo nhóm hay gia tăng giá trị, dù có thể nâng thu nhập và giảm phụ thuộc trung gian. Chỉ 11% RPSs có thiết bị chế biến (máy cán, lò hun khói), và ít hơn nữa còn hoạt động tốt.



Báo cáo phân tích thị trường