Một nhà kinh tế cà phê tại New York cho biết, thời hạn chọn hợp đồng sẽ kết thúc vào cuối tuần qua là yếu tố gây bất lợi cho thị trường cà phê thế giới, và vào thời điểm này, chỉ có những thông tin xấu về thời tiết tị các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới mới có thể ngăn các quỹ hàng hoá bán ra.
Hiệp hội các nhà trồng cà phê Colombia cho biết, sản lượng cà phê của nước này trong niên vụ 2005/06 vừa kết thúc đạt 11,952 triệu bao loại 60-kg, tăng 4,6% so với 11,430 triệu bao niên vụ trước.
Tuy nhiên, xuất khẩu cà phê của Colombia trong niên vụ này lại giảm 1,7% xuống còn 10,839 triệu bao.
Tính riêng tháng 9/06, sản lượng cà phê của nước này đạt 813.000 bao, tăng 20% so với 676.000 bao cùng tháng niên vụ trước. Nhưng xuất khẩu cà phê trong thời gian này lại đạt 1,083 triệu bao, tăng 54% so với 701.000 bao cùng kỳ năm 2005.
Trong khi đó, sản lượng cà phê của Colombia trong 9 tháng đầu năm nay đạt 8,518 triệu bao, tăng 11% so với 7,685 triệu bao cùng kỳ niên vụ trước. Nhưng xuất khẩu cà phê trong 9 tháng này lại giảm 0,4% xuống còn 7,924 triệu bao.
Colombia là nước sản xuất cà phê sạch lớn nhất thế giới, với sản lượng hàng năm đạt khoảng 11-12 triệu bao trong những năm gần đây.
Xuất khẩu cà phê một số nước niên vụ 2005/06:
Uganda:
Cơ quan Phát triển Cà phê Uganda (UCDA) cho biết, xuất khẩu cà phê niên vụ 2005/06 của nước này đạt 2.002.324 bao loại 60kg, giảm 21% so với 2,53 triệu bao niên vụ trước đó.
Tuy nhiên, giá trị kim ngạch xuất khẩu trong niên vụ này đạt 170 triệu USD, tăng 5% so với 162 triệu USD nhờ giá cà phê thế giới tăng cao trên thị trường giao dịch thế giới.
Trong số cà phê xuất khẩu, có khoảng 1,41 triệu bao cà phê Robusta, giảm 30% so với niên vụ 2004/05, và cà phê Arabica chất lượng lại tăng thêm 15% từ 0,52 triệu bao niên vụ trước lên 0,59 triệu bao.
Xuất khẩu cà phê của Uganda trong tháng 9/06 đạt 158.548 bao, tăng so với 142.288 bao cùng tháng năm ngoái.
Dự đoán, xuất khẩu cà phê của Uganda trong tháng 10/06 – tháng đầu tiên của niên vụ mới 2006/07 đạt 145.000 bao và ước tính khả quan hơn là đạt 150.000 bao. Sản lượng cà phê của Uganda trong niên vụ 2006/07 được dự đoán đạt 2,2 triệu bao. Các thị trường xuất khẩu cà phê chính của Uganda là các nước EU.
El Salvador:
Hội đồng Cà phê El Salvador cho biết, xuất khẩu cà phê của nước này trong niên vụ 2005/06 đạt 1.274.340 bao loại 60kg, giảm 2,9% so với 1.312.385 bao niên vụ trước.
Xuất khẩu cà phê của nước này trong tháng 9/06 – tháng thứ 12 của niên vụ 2005/06 đạt 60.875 bao, tăng 105% so với 29.679 bao cùng tháng năm trước.
Trong tổng lượng xuất khẩu trong niên vụ 2005/06, có 50.751 bao (4%) cà phê hạt của niên vụ trước, trong khi đó con số này trong năm 2004/05 là 95.358 bao (7,3%).
Sản lượng cà phê niên vụ 2005/06 ước đoán đạt 1.488.510 bao, tăng 11% so với niên vụ trước.
Nicaragua:
Trung tâm xuất khẩu cà phê Nicaragua cho biết, xuất khẩu cà phê của nước này trong niên vụ vừa kết thúc 2005/06 đạt 1.361.238 bao, tăng 42% so với 959.246 bao xuất khẩu niên vụ trước.
Bộ Nông nghiệp Nicaragua dự báo, sản lượng cà phê của nước này trong niên vụ 2005/06 tăng 52% đạt tới 1,4 triệu bao sau một năm với các điều kiện thời tiết lý tưởng cho cây cà phê phát triển tốt.
Trong niên vụ 2004/05, nước này chỉ thu hoạch được 620.000 bao, giảm 33% so với niên vụ 2003/04 (1,38 triệu bao). Trong khi đó, xuất khẩu cà phê trong niên vụ 2004/05 đạt 959.246 bao, giảm 23% so với 1.241.693 bao trong niên vụ 2003/04.
Guatemala:
Hiệp hội Cà phê quốc gia Guatemala (Anacafe) cho biết, xuất khẩu cà phê niên vụ 2005/06 vừa kết thúc tháng 9 đạt 3.324.573 bao loại 60kg, giảm 3,7% so với niên vụ trước.
Trong khi đó, riêng tháng 9/06 – tháng thứ 12 của niên vụ này Guatemala xuất khẩu được 181.635 bao, tăng 31% so với 138.636 bao cùng tháng niên vụ trước.
Theo dự báo ban đầu của Anacafe, xuất khẩu cà phê của nước này trong niên vụ 2005/06 đạt 3,68 triệu bao, tăng 7% so với xuất khẩu niên vụ 2004/05, nhưng do sản lượng đã giảm khoảng 10% bởi sự tàn phá của cơn bão Stan hồi cuối tháng 10 năm ngoái.
Trung bình mỗi năm, Guatemala xuất khẩu thêm khoảng 400.000 bao cà phê chất ;ượng thấp hơn để phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Anacafe ước tính sản lượng cà phê dựa trên khối lượng cà phê xuất khẩu và lượng tiêu thụ nội địa.
Dự báo, giá cà phê thế giới tuần tới sẽ tăng nhưng không nhiều do tiêu thụ cà phê thế giới sẽ tiếp tục tăng trong khi sản lượng cà phê tại các nước sản xuất chủ chốt lại giảm do hạn hán và lũ lụt.
Diễn biến giá cà phê thế giới:
Thị trường | Loại | Đơn vị tính | 20/10/06 | 13/10/06 |
New York | Arabica | Uscent/lb | 102,05 | 104,05 |
London | Robusta | USD/tấn | 1483 | 1497 |
Tokyo | Arabica Robusta | Yên/69kg Yên/100kg | 17510 18890 | 17990 18750 |