Việt Nam hiện có khoảng 300 doanh nghiệp chế biến thủy sản, chủ yếu là tôm và cá tra. Trong đó, có 26 doanh nghiệp đã lên sàn, niêm yết, quản trị hiện đại. Mỗi phân đoạn sản xuất thủy sản xuất khẩu đều tạo ra một thị trường cạnh tranh cao để đa dạng hóa chủng loại, chất lượng, giảm chi phí đầu vào, không độc quyền.
Cũng tại Việt Nam hiện đã hình thành các cụm nuôi trồng – chế biến – xuất khẩu thủy sản – phụ trợ ở các tỉnh Đồng bằng song Cửu Long. Tính chuyên nghiệp và năng động của doanh nghiệp trong mỗi phân đoạn cũng đang được nâng lên.
Nhiều doanh nghiệp làm ăn bài bản, sử dụng quy trình công nghệ sản xuất hiện đại, quy mô lớn, áp dụng mô hình quản trị tiên tiến, nhiều kênh tiếp nhận tài chính – tín dụng, chủ động dịch chuyển trong chuỗi giá trị để tối đa hóa lợi nhuận…
Đối với các chính sách thuế, thủ tục hải quan, theo các doanh nghiệp cũng đã được cải thiện khá nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là việc kê khai hải quan, kiểm tra hàng hóa, hoàn thuế đầu vào, hải quan điện tử…
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn không ít thách thức ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Đó là các hiệp định thương mại. 100% doanh nghiệp có biết về các hiệp định này, tuy nhiên mức độ tuân thủ còn khá thấp. Kiểm dịch động thực vật được tuân thủ cao nhất (60%); tiếp đến là quy tắc xuất xứ (50%) và thuế quan (42,9%). Mức độ tuân thủ các hiệp định liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp và hàng rào kỹ thuật là thấp nhất, trong khi đó, chính sách, quy định rào cản của nước nhập khẩu có xu hướng ngày càng khó khăn. Điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, đa phần các doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ giải quyết khó khăn về vốn, trong đó chủ yếu là hỗ trợ lãi suất, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, giảm bớt các yêu cầu về thế chấp và định giá tài sản thế chấp cần phù hợp hơn với giá thị trường.
Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục thuế và hải quan, cụ thể, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế đầu vào, tinh giản các thủ tục và quy trình hải quan, triển khai thuế và hải quan điện tử.
Hơn nữa, các hiệp hội ngành nghề cần tăng cường vai trò của mình trong hỗ trợ doanh nghiệp như: Cung cấp thông tin chính sách, pháp luật, về thị trưởng giá cả, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, đặc biệt của các nước đối tác, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp…
Với các doanh nghiệp xuất khẩu, việc tổ chức hệ thống hỗ trợ, cung cấp thông tin và chính sách đối với hoạt động xuất khẩu là hết sức quan trọng, đặc biệt là việc kịp thời thông tin cho doanh nghiệp khi có những biến động trên thị trường, tìm thị trường, tìm đối tác.
Theo nhiều doanh nghiệp, cần thay đổi hình thức xúc tiến thương mại hiện nay nhằm tránh cạnh tranh trong nội bộ, tăng sức cạnh tranh của ngành hàng.
Ngoài ra, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thủy sản, việc xây dựng thương hiệu quốc gia cần trở thành ưu tiên hàng đầu của Tổng cục thủy sản, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản, các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài.
Theo kinh nghiệm xây dựng thành công thương hiệu cá hồi của Na-uy, Chi-lê và rượu Cognac của Pháp, cần có một thương hiệu chung theo luật định, nếu không sẽ bị phụ thuộc nước ngoài.
Mong rằng với phương hướng phát triển bền vững ngành thủy sản bằng cách cải thiện chất lượng, áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến… ngành thủy sản sẽ tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản