Sau khi vụ thu hoạch 2005/06 của Việt Nam thiệt hại nặng vì hạn hán khiến cho thị trường trở nên khan hiếm cung, trong khi nhu cầu tiêu thụ cà phê thế giới ngày càng tăng, chi phí sản xuất cao cản trở xu hướng mở rộng diện tích trồng cà phê.
Ngày 9/11/2006, giá Robusta tại thị trường London đã tăng tới mức cao nhất kể từ hơn 7 năm qua, 1.638 USD/tấn so với 1.215 USD/tấn hồi đầu năm. Mức giá cao nhất của Arabica tại New York đạt được vào ngày 14/12/2006 là 128,85 UScent/lb. Nguyên nhân giá tăng là do các quỹ hàng hoá tăng cường mua vào trong khi dự trữ cà phê ở các nước xuất khẩu chính hiện đang ở mức thấp nhất trong lịch sử mà tình hình vụ mùa không khả quan ở Braxin, khiến các nhà đầu cơ tích cực mua hàng vào. Theo Tổ chức cà phê thế giới (ICO), khối lượng cà phê dự trữ của toàn cầu có thể giảm xuống mức thấp kỷ lục 35 triệu bao 60 kg sau khi sản lượng giảm thấp trong vụ mùa 2005/06, so với 43-45 triệu bao 12 tháng trước đó, khiến các nước sản xuất và các nước tiêu dùng phải dùng tới lượng dự trữ để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ. Xuất khẩu cà phê thế giới năm 2005 giảm 4,4% so với năm trước, xuống 86,71 triệu bao loại 60kg. Tổng xuất khẩu cà phê của thế giới trong 5 tháng đầu niên vụ 2005/06 (bắt đầu từ tháng 10/2005) đạt tổng cộng 32,64 triệu bao (60 kg/bao), giảm 11% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Thị trường London là thị trường chính giao dịch cà phê robusta, loại cà phê thường dùng để sản xuất cà phê hoà tan. Cà phê arabica chất lượng cao hơn được giao dịch ở New York, và giá gần đây cũng tăng, mặc dù ít hơn. Braxin, nước sản xuất robusta lớn thứ hai thế giới, mới thu hoạch vụ mới, song hầu hết dành cho tiêu thụ nội địa. Indonexia, nước sản xuất lớn thứ 3, cũng đã thu hoạch song sản lượng giảm mạnh so với năm ngoái do thời tiết xấu. ICO cho biết tính đến cuối tháng 7, tồn kho của các nước sản xuất chỉ còn 10 triệu bao, của các nước tiêu thụ vào khoảng 18 triệu bao, giảm 7 triệu bao so với hai năm trước.
Dự trữ cà phê tại New York đã có xu hướng giảm kể từ tháng 7/2005, còn tại London, xu hướng này xuất hiện từ tháng 9/2005. Dự trữ tại Nhật Bản cũng bị giảm sút. Tính đến cuối tháng 2/06, cà phê tươi dự trữ tại các cảng của Nhật Bản chỉ còn 107.308 tấn, giảm 1,98% so với cuối tháng 01. Nguồn cung cà phê của Việt Nam - nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới – khan hiếm sau khi hạn hán xảy ra liên tiếp trong vụ 2005-06, làm giảm khoảng 21% sản lượng. Mặc dù các nước sản xuất cà phê vối lớn trên thế giới chào bán với giá rất cao và khối lượng hạn chế, song khách hàng vẫn không ngần ngại mua vào.
Việc chính phủ Việt Nam - nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới, có kế hoạch tăng cường kiểm soát chất lượng cà phê xuất khẩu sau hàng loạt những chuyến hàng không đảm bảo tiêu chuẩn trong thời gian gầy đây cũng tác động tới thị trường cà phê thế giới. Theo kế hoạch này, cà phê cần phải có giấy chứng nhận về chất lượng sản phẩm do cơ quan nhà nước cấp trước khi được xuất khẩu. Theo báo cáo của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), sản lượng cà phê thế giới vụ 2005/06 chỉ đạt 106,65 triệu bao (60 kg/bao), giảm 6,1% so với vụ 2004/05, thấp hơn so với mức tiêu thụ - ước đạt 117 triệu bao, trong đó Arabica đạt 69,80 triệu bao, giảm 10,8%, và Robusta đạt 36,84 triệu bao, tăng 4,33%. Xuất khẩu cà phê thế giới đã giảm gần 11% trong nửa đầu vụ 2005/06 và các nhà nhập khẩu đã phải dùng tới dự trữ để thoả mãn nhu cầu. Kết quả là dự trữ cà phê thế giới liên tục giảm sút.
ICO ước tính cung/cầu cà phê thế giới niên vụ 2006/07 sẽ gần cân đối, ở mức khoảng 120 triệu bao, khác với tình trạng dư thừa nhiều của những năm trước đây. Sản lượng của Braxin vụ 2005/06 dự kiến đạt khoảng 40,62 triệu bao, thấp hơn mức dự kiến trước đây là 42-44 triệu bao. Sản lượng này cũng chỉ đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ nội địa của nước này. Dự trữ cà phê của nước này không ngừng giảm, hiện chỉ khoảng 10 triệu bao, thấp nhất kể từ một thập kỷ nay. Việc sản lượng giảm ở nước sản xuất và xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới cung trên toàn cầu, nhất là khi nhu cầu cà phê ở Braxin và trên thế giới đều đang tăng lên. Trong khi nhu cầu cà phê thế giới hàng năm tăng khoảng 2% thì ở Braxin tăng khoảng 4%.
Vụ 2006/07, tổng cung cà phê thế giới dự báo đạt 146,9 triệu bao, tăng gần 7% so với mức ước tính của vụ 2005/06. Với nguồn cung gia tăng, xuất khẩu cà phê thế giới vụ 2006/07 dự báo sẽ phục hồi, có thể đạt 92,8 triệu bao, tăng 7,2 triệu bao so với vụ 2005/06, trong đó Braxin có thể chiếm 27,75 triệu bao, tăng 3,7 triệu bao. Braxin là nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, nên những thay đổi trong sản lượng cà phê của nước này sẽ ảnh hưởng đến tổng nguồn cung của thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam dự báo tăng 1,3 triệu bao, Pêru 1,1 triệu bao và Mêxicô tăng 900.000 bao. Nhu cầu cà phê thế giới cũng được dự báo sẽ đạt 151 triệu bao, tăng 4,1% so với dự báo sơ bộ và 12,7 triệu bao so với niên vụ trước. Xuất khẩu cà phê thế giới niên vụ 2006/07 dự báo sẽ tăng 10% so với niên vụ trước. Trong đó, xuất khẩu của Braxin và Việt Nam sẽ đạt 17 triệu bao và 15,3 triệu bao, tăng 1,7 triệu bao và và 2,4 triệu bao so với niên vụ 2005/06. Dự trữ cà phê thế giới niên vụ này cũng được dự báo sẽ đạt 23.0 triệu bao, tăng so với 19,8 triệu bao trong niên vụ 05/06.
Dự báo cà phê thế giới sẽ vững trong thời gian tới cùng với xu hướng giá của một số mặt hàng chủ chốt trên thế giới, trong bối cảnh giá năng lượng và giá nguyên liệu sản xuất vẫn cao.
Diễn biến giá cà phê:
| 3/1 | Mức cao nhất | 25/12 |
Robusta, USD/tấn | 1.215 | 1.638 (9/11) | 1.583 |
Arabica, US cent/lb | 108,60 | 128,85 (14/12) | 125,40 |