Nguồn: mekongasean.vn
|
Ảnh: Công ty TNHH Trà Phước Lạc |
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tháng 4/2023 Việt Nam xuất khẩu 8.091 tấn chè, đạt 13,71 triệu USD, tăng lần lượt 4,5% và 9% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2022, lượng và trị giá xuất khẩu chè của Việt Nam giảm lần lượt 9,2% và 15,8%.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 4/2023 đạt 1.694,8 USD/tấn, giảm 7,2% so với tháng 4/2022.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu chè đạt 29.404 tấn, trị giá 48,9 triệu USD, giảm 17,1% về lượng và giảm 22,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.663 USD/tấn, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu chè tới các thị trường chính như Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc) và Nga đều ghi nhận giảm trong 4 tháng đầu năm 2023.
Pakistan hiện là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam (chiếm 36,6%) 4 tháng đầu năm 2023 với 10.751 tấn, đạt 19,48 triệu USD, giảm lần lượt 3,2% và 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Triển vọng xuất khẩu chè tới Pakistan kém khả quan khi nước này đang trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế do thiếu ngoại tệ và lũ lụt, khiến tỷ lệ lạm phát lương thực của nước này đạt mức cao nhất mọi thời đại là 47,2% vào tháng 3/2023. Từ đó tác động lên việc chi trả cho các nhu yếu phẩm cơ bản (bao gồm chè) của người tiêu dùng nước này.
Sau Pakistan, Đài Loan là thị trường xuất khẩu chè lớn thứ 2 của Việt Nam với 3.605 tấn, đạt 5,64 triệu USD, giảm 14,8% về lượng và giảm 15,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, thị trường Đài Loan đóng vai trò trung gian cho nhiều chủng loại sản phẩm của Việt Nam, trong đó mặt hàng chè để xuất khẩu sang các thị trường Âu, Mỹ và Đông Á.
Tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu của thị trường Đài Loan có xu hướng giảm mạnh do kinh tế suy giảm. GDP của thị trường Đài Loan trong quý 1/2023 giảm 3,02% so với cùng kỳ năm 2022, nguyên nhân chủ yếu do tác động của lạm phát toàn cầu, áp lực tăng tăng lãi suất kéo dài và nhu cầu người tiêu dùng tiếp tục suy yếu.
Chè xuất khẩu tới thị trường Nga trong 4 tháng đầu năm 2023 đạt 2.427 tấn, đạt 3,94 triệu USD, giảm 12,5% về lượng và giảm 20,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine vẫn căng thẳng, các biện pháp trừng phạt đối với Nga chưa ngừng lại. Hiện các hãng tàu, hàng không lớn chưa nối lại vận chuyển tới Nga.
Do đó, các hoạt động vận tải, thanh toán giữa Việt Nam và Nga vẫn còn nhiều khó khăn, điều này ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa, trong đó có mặt hàng chè tới thị trường Nga.
Đáng chú ý, trong số các thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam, Trung Quốc, Iraq và Arab Saudi là các thị trường có mức tăng trưởng về lượng tới 2 con số với lần lượt 99%, 19% và 16% so với cùng kỳ năm 2022.
Về trị giá, kim ngạch xuất khẩu chè sang Trung Quốc tăng tới 219% so với cùng kỳ năm 2022 và là thị trường duy nhất trong số các thị trường chính có mức tăng trưởng tới 3 con số. Đứng sau là Ấn Độ với 20%; Iraq với 3% và Arab Saudi với 0,1%.
Về giá xuất khẩu trung bình, Trung Quốc là thị trường có giá xuất khẩu cao nhất với 2.637 USD/tấn, tiếp đến là Arab Saudi với 2.497 USD/tấn, Pakistan với 1.812 USD/tấn...