Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Xuất khẩu nông sản tăng tốc 6 tháng cuối năm 2023
14 | 07 | 2023
6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022. Dự báo 6 tháng cuối năm, các mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng gặp hàng loạt khó khăn về đơn hàng mới và mở rộng thị trường. Tập trung đẩy nhanh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 55 tỷ USD.

Nguồn: en.nhandan.vn

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), 6 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản chiếm tỷ trọng lần lượt là 21,4% (tăng 7,7%), 20,2% (giảm 32,9%) và 7,7% (giảm 5,3%).

Nỗ lực giữa khắc nghiệt

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm ước tính đạt 3,1%; trong đó nông nghiệp tăng 3,14% (trồng trọt tăng 2,11%, chăn nuôi tăng 4,88%), lâm nghiệp tăng 3,43%, thủy sản tăng 2,96%. tốc độ tăng trưởng GDP khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm khá cao, đạt 3,07%. Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ NN&PTNT Nguyễn Văn Việt cho biết, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm giảm nhưng vẫn có 7 mặt hàng và nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. bao gồm cà phê, cao su, gạo, rau quả, hạt điều, tôm và sản phẩm gỗ.

Chế biến thủy sản xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Thủy sản Cafatex, tỉnh Hậu Giang.  (Ảnh: TRẦN QUỐC)

Cụ thể, lượng gạo xuất khẩu ước đạt 4,27 triệu tấn, tăng 22,2%, với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,3 tỷ USD (tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước). Ngoài ra, xuất khẩu hạt điều tăng 10,5% về lượng và 7,7% về giá trị. Cà phê xuất khẩu đạt 1,02 triệu tấn, giảm 2,2% về lượng nhưng kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD (tăng 3%) nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 5,2%. Bên cạnh đó, điểm nhấn đáng chú ý là mặt hàng rau quả đạt kim ngạch xuất khẩu 2,75 tỷ USD, tăng 64,2% so với cùng kỳ và bằng 81,8% của cả năm 2022. Kết quả đạt được nhờ chủ động tháo gỡ các vướng mắc liên quan theo đơn đặt hàng và thị trường để tăng cường xuất khẩu.

Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm cũng ghi nhận kim ngạch của hai mặt hàng quan trọng là thủy sản và lâm sản đều giảm. Cụ thể, thủy sản đạt 4,13 tỷ USD, giảm 27,4%, lâm sản chính đạt 6,5 tỷ USD, giảm 28,2%. Theo Phó cục trưởng Cục Lâm nghiệp Triệu Văn Lực, giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính giảm trong nửa đầu năm 2023 do người tiêu dùng châu Âu, châu Mỹ thắt chặt chi tiêu, giảm tiêu thụ sản phẩm gỗ nên việc mở thêm đơn hàng mới trở nên vô cùng khó khăn. . Trong khi đó, chi phí nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao cũng ảnh hưởng đáng kể đến kết quả xuất khẩu của toàn ngành. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ phải đối mặt với những quy định, yêu cầu mới từ thị trường Liên minh châu Âu (EU). Vì thế,

Đối với ngành thủy sản, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm do hai yếu tố chính là lạm phát và hàng tồn kho, ở hầu hết các thị trường nhập khẩu chính như: Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản.

Tận dụng thế mạnh của các sản phẩm triển vọng

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, toàn ngành nông nghiệp vẫn quyết tâm tận dụng cơ hội, tập trung nguồn lực hoàn thành mục tiêu kế hoạch cả năm đề ra, với tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,0- 3,5% và kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 55 tỷ USD. Để thực hiện mục tiêu này, cần thực hiện các giải pháp hướng đến các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có triển vọng và tiềm năng giá trị xuất khẩu cao để bù đắp cho những mặt hàng có thể không đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu cả năm.

 

Các mục tiêu đề ra là 25 tỷ USD cho các mặt hàng nông sản chủ lực; lâm sản và đồ gỗ 17 tỷ đồng; 10 tỷ USD cho thủy sản; và khoảng 3 tỷ USD đối với các mặt hàng khác. Cùng với đẩy mạnh xuất khẩu, cần đặc biệt quan tâm đến sản xuất để đảm bảo đủ cung và chất lượng. Vì vậy, cần theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, khí tượng, thủy văn, bão lũ, thiên tai, nguồn nước, xâm nhập mặn để kịp thời có định hướng thời vụ, cơ cấu cây trồng hợp lý; quản lý chặt chẽ việc cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi, hỗ trợ bảo hộ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Bên cạnh việc tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu toàn ngành, những ngành công nghiệp mũi nhọn có sự bứt phá mạnh mẽ về kim ngạch cần được hết sức quan tâm để phát huy tiềm năng tăng trưởng cao hơn nữa. Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT Nguyễn Như Cường cho biết, rau quả Việt Nam có nhiều tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu. Minh chứng là chưa bao giờ xuất khẩu rau quả cao như 6 tháng đầu năm nay. Nếu tiếp tục đà tăng trưởng này, ngành chắc chắn sẽ đạt mục tiêu xuất khẩu hơn 5 tỷ USD vào năm 2023.

Thời gian tới, các biện pháp nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm từ công nghệ chế biến sâu sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu mở ra nhiều cơ hội tăng mạnh, kỳ vọng có thể đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD trong thời gian tới. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là các sản phẩm cần phải đáp ứng các quy định mới của nhiều thị trường. Nếu như trước đây, các thị trường chủ yếu ban hành các quy định liên quan đến an toàn thực phẩm thì nay nhiều yêu cầu liên quan đến phát triển bền vững gắn với tăng trưởng xanh như yếu tố môi trường, lao động đã trở nên quan trọng hơn, đòi hỏi sự quan tâm của doanh nghiệp.

Cùng với rau quả, mặt hàng gạo cũng ước đạt kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD cả năm sau mức tăng trưởng vượt bậc trong 6 tháng đầu năm. Phó cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường Lê Thanh Hòa cho biết, những tháng cuối năm, xuất khẩu gạo của Việt Nam có nhiều cơ hội tăng cả về sản lượng và kim ngạch do lượng gạo được sản xuất tại nhiều nước trong khu vực châu Á. đứng trước nguy cơ suy giảm do tác động của El Nino. Bình quân 6 tháng đầu năm, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 539 USD/tấn, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong thời gian tới, trên cơ sở Công văn số 610/CĐ-TTg ngày 03/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, các ngành chức năng sẽ tiếp tục rà soát, cập nhật tiêu chuẩn. trong chuỗi giá trị lúa gạo gắn với thị trường quốc tế; cập nhật thông tin và hỗ trợ sản xuất theo nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng; hỗ trợ bảo quản, chế biến đảm bảo chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc để tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam.

Đồng thời, liên kết trong sản xuất lúa gạo chất lượng cao, chuyển đổi cơ cấu, chủng loại gạo xuất khẩu để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, phù hợp với Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2030 cũng như Đề án phát triển 1 triệu ha lúa gạo thấp - Đẩy mạnh phát triển lúa gạo chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

 



Báo cáo phân tích thị trường