Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Thủ công mỹ nghệ - nhóm sản phẩm tiềm năng đạt kim ngạch xuất khẩu cao
18 | 09 | 2007
Trong “Đề án phát triển XK giai đoạn 2006 - 2010” của Bộ Thương mại, định hướng phát triển nhóm hàng TCMN chiếm một vị trí rất quan trọng. Đây là một trong số ngành được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển bền vững, xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Mục tiêu phấn đấu cho năm 2007 của ngành TCMN phải đạt 820 triệu USD và năm 2010 là 1,5 tỉ USD.

Những năm trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu sẵn có ở trong nước dựa trên cơ sở nguồn nguyên liệu thô dồi dào, phù hợp và đa dạng, tỷ trọng vật tư nhập khẩu thường ở mức dưới 10%. Đây là một thuận lợi lớn trong việc phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cho nên ngoại tệ thực thu trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ lệ rất cao, hơn 90%.

Kế hoạch năm 2006 hàng thủ công mỹ nghệ dự kiến là 660 triệu USD, nhưng thực tế đạt được khoảng 630,4 triệu USD, tăng trưởng có 10,8% so với dự kiến là 16,3%, vì vậy những năm sau ngành hàng thủ công mỹ nghệ phải phấn đấu tăng trưởng rất cao mới thực hiện được kế hoạch đề ra.

Ước đoán kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ từ năm 2006-2010

Đơn vị (triệu USD)

2006

2007

2008

2009

2010

Giai đoạn 2006-2010

KN

Tăng (%)

KN

Tăng (%)

KN

Tăng (%)

KN

Tăng (%)

KN

Tăng (%)

KN

Tăng (%)

662

16,3

821

24,0

997

21,5

1.214

21,7

1511

24,5

5.024

21,6

Cơ cấu nhóm hàng:

Nhóm hàng

Thực hiện năm 2006

Dự kiến năm 2010

Mây tre, cói, lá thảm

191,6 tr USD tỷ trọng 30,4%

450 tr USD tỷ trọng 30%

Gốm sứ

274,3 - 4,3%

660 - 44%

Đá, kim loại quý

164,5 - 26%

390 - 26%

Tuy nhiên, sản xuất hàng TCMN hiện đang thực sự phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, kim ngạch XK của một số mặt hàng TCMN có sự tăng trưởng thiếu ổn định, thậm chí có lúc còn đạt rất thấp.

Có 3 khó khăn lớn quyết định sự sống còn của các DN sản xuất kinh doanh XK hàng TCMN hiện nay. Đó là:

+Thứ nhất, về nguồn nguyên liệu do các địa phương đã khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng nguồn : gỗ, tre, trúc, giang, nứa, mây... dần cạn kiệt. Hệ quả là hiện các DN phải NK khoảng 50% mây từ Lào, Cam phuchia và Indonesia... Giá của nguyên liệu tre đã tăng lên từ 7000 tới 17000 đồng/cây chỉ trong vòng 2 năm gần đây. Nhìn chung, tình trạng cạn kiệt nguồn nguyên liệu thô là nguy cơ chung đối với các nhà sản xuất Việt Nam.Trong khi đó, các ngành phụ trợ của Việt Nam hiện nay chưa phát triển, các nhà XK thường phải NK rất nhiều loại nguyên liệu và phụ trợ từ nước ngoài, ví dụ như sơn mài PU và chất nhuộm màu để thực hiện các khâu hoàn thiện sản phẩm. Vải có chất lượng cho sản xuất hàng thêu ren hầu như phải NK hoàn toàn làm chi phí cho nguyên liệu chiếm từ 60 đến 80% chi phí sản xuất. Giá NK sợ visco cao cũng tạo ra mối đe dọa cho các ngành dệt khác...

Ngoài việc giá nguyên liệu thô tăng ảnh hưởng đến năng lực thu mua nguyên liệu của các DN, nó còn làm giảm khả năng cạnh tranh hàng XK của Việt Nam.

+Thứ hai, đối với mẫu mã. Theo nhận xét của khách hàng, 90% mẫu hàng TCMN hiện nay dựa trên đặt hàng từ người mua và các sản phẩm thủ công của Việt Nam đều có vẻ bề ngoài khá giống nhau. Hạn chế này xuất phát từ việc Việt Nam chưa có viện thiết kế mẫu riêng cho các sản phẩm TCMN, thiếu khoa, trường lớp đào tạo lao động các nghề TCMN. Học nghề TCMN chủ yếu bằng phương pháp “truyền nghề” theo kinh nghiệm trong làng nghề hoặc gia đình.

+Thứ ba, mạng lưới sản xuất kinh doanh hàng TCMN đa số nhỏ lẻ, nhiều cơ sở không có điều kiện tham gia XK trực tiếp, các đơn đặt hàng thường qua trung gian nên hạn chế phát triển... Ngoài ra còn hàng loạt các khó khăn như vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh hàng TCMN nói chung không lớn, tuy nhiên để tiếp cận với nguồn tài chính như thủ tục vay vốn ngắn hạn của các DN, khu vực nông thôn và người nghèo mất quá nhiều thời gian. Trong khi đó, tiền vay được lại ít hơn nhiều so với nhu cầu. DN rất khó đáp ứng được những điều kiện bảo đảm thế chấp, do đó dẫn đến hạn chế hoạt động kinh doanh. Các đơn vị sản xuất còn thiếu mặt bằng để mở rộng sản xuất, điều kiện về cơ sở hạ tầng rất thấp kém; chi phí vận chuyển quá cao...

Để đạt được mục tiêu đề ra 1,5 tỉ USD, nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng trong mấy năm gần đây, cụ thể là năm 2006 chỉ là 10,8% cho thấy kế hoạch phấn đấu đề ra trong thời gian tới của ngành hàng này đòi hỏi phải có sự đột phá.

Theo Bộ Thương mại, ngoài việc phối hợp với Bộ Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài Chính và các địa phương để giải quyết về vấn đề nguyên liệu, tài chính, mặt bằng sản xuất kinh doanh thì vấn đề đẩy mạnh xúc tiến XK vào một số thị trường trọng điểm sẽ là khâu đột phá để tăng kim ngạch XK trong thời gian tới. Cụ thể:

+Hoa Kỳ, mỗi năm NK tới 13 tỉ USD, Việt Nam không chỉ chiếm ở con số 1,5% kim ngạch NK của nước này mà phải là 400 triệu USD vào năm 2010;

+Thị trường EU, mỗi năm NK khoảng 7 tỉ USD, Việt Nam cũng chỉ chiếm 5,4% trong số kim ngạch đó, đến năm 2010 chúng ta phải XK vào đây 600 triệu USD;

+Nhật Bản: mỗi năm NK khoảng 2,9 tỉ USD, nhưng Việt Nam chỉ khiêm tốn chiếm 1,7% kim ngạch NK đó, mục tiêu năm 2010 sẽ phải đưa lên trên 4% với kim ngạch khoảng 150 triệu USD.

+ Thị trường Trung Đông là khu vực tiềm năng, mấy năm gần đây các DN cũng đã thực hiện nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, nhưng chưa đẩy mạnh XK được. Trong thời gian tới, đây vẫn là thị trường ngỏ để các DN tiếp tục thâm nhập

Một thuận lợi nữa cho ngành Thủ công mỹ nghệ phát triển mạnh xuất khẩu đó là mới đây ngày 10/5 tại Hà Nội, Ban vận động thành lập Hiệp hội đã tổ chức Đại hội lần thứ nhất nhiệm kỳ 2007-2012 và Lễ thành lập Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam (VietCraft) Theo Quyết định số 302/QĐ-BNV ngày 2/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc cho phép thành lập Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Đây là một cầu nối cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Từ nay cho đến năm 2010, VietCraft sẽ tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực trên cơ sở các nhu cầu thực tế và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp hội viên trên cơ sở các thị trường mục tiêu được định hướng rõ ràng, đồng thời phối hợp với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế để tạo ra một môi trường tốt nhất cho các doanh nghiệp thành viên, từ việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng và cạnh tranh, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, quản lý đến xúc tiến thương mại trên cơ sở các thị trường mục tiêu. Bên cạnh đó, Hiệp hội sẽ tích cực xây dựng các mối quan hệ mang tầm khu vực và thế giới nhằm nâng cao hình ảnh và tính cạnh tranh của ngành hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.

Để có thể hỗ trợ cho các nhà nhập khẩu, phân phối quốc tế có nhu cầu tìm hiểu, hợp tác với các doanh nghiệp trong ngành hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, trong năm 2008, VietCraft sẽ tổ chức một hội chợ quốc gia về hàng thủ công mỹ nghệ và trang trí nội thất, quà tặng tại Việt Nam mang tầm quốc tế.



Nguồn: trade.hochiminhcity
Báo cáo phân tích thị trường