Mặc dù là một nước nông nghiệp, hàng năm Việt Nam vẫn thường phải nhập khẩu hơn 1 tỉ đô la Mỹ nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trong đó phần lớn là các mặt hàng khô đậu tương, bột cá và ngô. Sáu tháng đầu năm nay, nhập khẩu các mặt hàng này có những dấu hiệu biến động rất đáng lưu ý về cơ cấu sản phẩm và nguồn cung nhập khẩu.
Nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng mạnh vào tháng 6, trên 58% so với tháng 5. Những tín hiệu tốt từ thị trường tài chính và việc giá thế giới của hầu hết các mặt hàng liên tục giảm kể từ trung tuần tháng 6 khiến nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh nhập hàng.
Nguồn cung tại các nước sản xuất lớn như Mỹ, Argentina dồi dào do tình hình thời tiết thuận lợi, kết hợp với việc các quỹ liên tục bán ra khiến giá khô đậu tương Ấn Độ hiện chỉ còn 400 đô la Mỹ/tấn; giá ngô Chicago hiện tụt xuống khoảng 126 đô la Mỹ/tấn - lần lượt giảm 14% và 27% so với hồi đầu tháng 5.
Nếu tình hình tiếp tục diễn biến theo chiều hướng này, nhiều khả năng giá chào bán của doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước sẽ hạ nhiệt sau 2-3 lần liên tục điều chỉnh tăng kể từ đầu năm.
Xét về cơ cấu mặt hàng, có thể nhận thấy một sự chuyển biến rõ nét về tỷ trọng các mặt hàng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu trong sáu tháng đầu năm nay. Cụ thể, nhập khẩu ngô hạt tăng mạnh từ 8% lên 17%, kim ngạch nhập khẩu các loại cám tăng từ 0,13% lên 2,89%, trong khi đó, nhập khẩu khô đậu tương giảm từ 44% xuống còn 42% và dấu hiệu hồi phục chỉ bắt đầu diễn ra kể từ đầu tháng 6.
Về thị trường nhập khẩu khô đậu tương, sáu tháng đầu năm 2009, kim ngạch nhập khẩu từ Ấn Độ, nước xuất khẩu khô đậu tương lớn nhất sang Việt Nam, giảm gần 60% so với cùng kỳ năm trước và liên tục lập kỷ lục về mức giảm sâu, từ 54 triệu đô la Mỹ tháng 3-2009 xuống còn 22 triệu đô la vào tháng 5 và hiện chỉ còn giữ ở mức hơn 9 triệu đô la vào tháng 6.
Như vậy, đây là mức giảm sâu nhất kể từ năm 2007 và nguyên nhân chính được cho là do Ấn Độ đang tập trung vào nhu cầu nội địa. Theo Báo cáo thị trường thức ăn chăn nuôi quý 2 của AGROINFO, xu hướng giảm này sẽ còn tiếp diễn trong các tháng cuối năm, khi mà các đơn hàng nhập khẩu khô đậu tương đang được chuyển hướng rất mạnh sang các đối tác Argentina với mức giá dễ chịu hơn giá chào bán của Ấn Độ.
Riêng đối với ngô hạt, khối lượng nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2009 tăng tương đối mạnh so với cùng kỳ năm trước (tăng 57,3) do giá ngô thế giới hiện xuống rất thấp. Đây có thể là thời điểm để các doanh nghiệp lựa chọn nguyên liệu nhập khẩu thay thế cho nguồn hàng nội địa.
6 tháng đầu năm 2009, Việt Nam nhập khẩu thức ăn chăn nuôi từ 66 quốc gia, trong khi cùng kỳ năm trước số lượng này là 62 quốc gia. Trong 10 nước xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi lớn nhất vào Việt Nam đầu năm nay, phần lớn là các bạn hàng truyền thống như Ấn Độ, Argentina, Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Brazil và Indonesia.
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sang Việt Nam 6 tháng đầu năm nay của 4 trong 7 nước này bị giảm, trong đó giảm mạnh nhất là Thái Lan (-60,07%), tiếp đến là Ấn Độ và Trung Quốc (lần lượt giảm 46,06% và 23,7%). Như vậy, hiện tượng nhập khẩu quá lớn từ một thị trường của Việt Nam đang dần được hạn chế, thay vào đó là việc đa dạng hóa các nguồn nhập khẩu, mở rộng tìm kiếm các đối tác mới như Afghanistan, Hungary, Italia...
Thị trường nhập khẩu thức ăn gia súc & nguyên liệu 6 tháng đầu năm
Số TT | Thị trường | Tháng 6/2009 (USD) | 6 tháng đầu năm 2009 (USD) |
1 | Achentina | 124.971.847 | 204.390.167 |
2 | Ấn Độ | 17.867.217 | 250.968.953 |
3 | Anh | 256.476 | 1.863.067 |
4 | Áo | 308.423 | 2.541.334 |
5 | Bỉ | 431.679 | 2.106.426 |
6 | Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất | 2.045.856 | 8.121.427 |
7 | Canada | 101.235 | 1.181.714 |
8 | Chilê | 2.018.283 | 6.466.161 |
9 | Đài Loan | 3.909.751 | 12.124.076 |
10 | CHLB Đức | 688.295 | 2.093.412 |
11 | Hà Lan | 408.063 | 1.920.744 |
12 | Hàn Quốc | 2.897.396 | 9.770.636 |
13 | Hoa Kỳ | 17.301.789 | 80.704.778 |
14 | Indonesia | 4.757.276 | 23.842.155 |
15 | Italia | 3.354.982 | 13.745.676 |
16 | Malaysia | 948.535 | 5.460.090 |
17 | Newzealand | 23.160 | 86.648 |
18 | Nhật Bản | 410.239 | 2.554.636 |
19 | Ôxtrâylia | 740.475 | 2.893.146 |
20 | Pháp | 1.097.312 | 5.764.603 |
21 | Philippine | 1.378.162 | 4.996.077 |
22 | Singapore | 878.551 | 4.391.187 |
23 | Tây Ban Nha | 209.194 | 1.698.768 |
24 | Thái Lan | 5.960.174 | 19.917.844 |
25 | Trung Quốc | 24.352.805 | 72.183.466 |
Tổng | 823.095.830 |
(tổng hợp)(Theo Vinanet)