Gần đây, các nhà hoạch định chính sách và cả cơ quan quản lý nhà nước đều lo ngại rằng hạt gạo Việt Nam đang thể hiện sự đuối sức trong cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Mặc dù từ năm 2006, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu đã đón nhiều cơ hội mới, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đã gấp 4 lần so với trước, đạt 32,1 tỷ USD vào năm 2016, thế nhưng đối với lúa gạo những năm gần đây tốc độ xuất khẩu chậm lại và khó khăn hơn.
Nông dân Bạc Liêu thu hoạch lúa đông xuân. Ảnh: Khánh Văn
Lúa gạo của Việt Nam đang giảm sức cạnh tranh do phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu thô nông sản, khâu chế biến kém, không làm chủ được thị trường, đặc biệt là tình trạng quy trình sản xuất không đạt chuẩn về nông sản sạch, lượng tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép.
Điều đó cho thấy, khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch và giám sát chất lượng nông sản - thực phẩm xuất khẩu rất quan trọng, cần phải được đầu tư đúng mức, cần có những chương trình quyết liệt hơn.
Rất mừng là gần đây, có nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam được các nước nhập khẩu đánh giá cao không chỉ vì độ thơm ngon mà còn từ quy trình sản xuất, thu hái, chế biến, bảo quản, đóng gói… tuân thủ theo đúng tiêu chuẩn hiện đại, nghiêm ngặt, đảm bảo yêu cầu kiểm dịch và chất lượng.
Có thể kể tên một vài thương hiệu như cà phê Tây Nguyên, nhãn Ido, xoài Cát Chu, tiêu Phú Quốc, chuối Lào Cai, chôm chôm Java, chè Shan Tuyết, chè Ô Long, chè Tân Cương, vải thiều Lục Ngạn...
Đứng đầu là về rau củ quả, kim ngạch xuất khẩu trong năm 2016 đã đạt kỷ lục là 2,4 triệu USD và năm 2017 dự báo có thể đạt tới 3 tỷ USD.
Trái cây Việt Nam đang được nhiều nước hồ hởi đón nhận, nhưng để được các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Australia… cho phép nhập thì các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng nhiều điều kiện, trong đó có quy trình trồng - thu hái và xử lý chiếu xạ.
Hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh “tái cơ cấu ngành nông nghiệp”. Tuy nhiên, nếu tái cơ cấu mà bỏ qua vấn đề đầu tư nâng cao năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm từ nông sản, áp dụng mạnh mẽ công nghệ bảo quản - chống tổn thất sau thu hoạch, cùng với hệ thống giám sát chất lượng chuẩn mực thì chưa có hiệu quả.
Việc này tất nhiên do chính doanh nghiệp thực hiện, nhưng Nhà nước cần đưa ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn buộc doanh nghiệp phải đáp ứng, đồng thời hỗ trợ vốn và lãi suất để doanh nghiệp đầu tư mạnh hơn cho chế biến, bảo quản sau thu hoạch và nâng cao chất lượng.