Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 13,3 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 5,5 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị xuất khẩu chăn nuôi ước đạt 360 triệu USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị xuất khẩu mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,9 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong số các mặt hàng nông sản, gạo, rau quả, điều là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cả lượng và giá trị. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, khối lượng gạo xuất khẩu trong tháng 8/2018 ước đạt 441 nghìn tấn, với giá trị đạt 209 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 4,4 triệu tấn và đạt kim ngạch 2,2 tỷ USD, tăng 6,8% về khối lượng và tăng 22,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá gạo xuất khẩu bình quân các tháng đầu năm 2018 được đánh giá là cao hơn cùng kỳ năm 2017 (giá bình quân 7 tháng là 507 USD/tấn, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2017).
Giá trị xuất khẩu rau quả trong tháng 8/2018 ước đạt 346 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu rau quả 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2017. Trong 7 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn đứng đầu với 74% thị phần, giá trị xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD, tăng 12,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường khác có giá trị xuất khẩu rau quả tăng mạnh so với cùng kỳ là Thái Lan (tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2017), Hoa Kỳ (tăng 19,3%), Hàn Quốc (tăng 18,7%) và Malaysia (tăng 12,9%).
Trong tháng 8/2018, khối lượng điều nhân Việt Nam xuất khẩu ước đạt 30 nghìn tấn với giá trị 254 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu điều nhân 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 238 nghìn tấn và với kim ngạch 2,2 tỷ USD, tăng 5,8% về lượng và tăng 0,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Trong 7 tháng đầu năm, Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất với thị phần giá trị xuất khẩu lần lượt là 38,6%, 12,6% và 10,3%.
Trong khi đó, các mặt hàng cà phê, hạt tiêu và cao su là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng về lượng nhưng giảm về giá trị. Theo đó, xuất khẩu cà phê trong tháng 8/2018 ước đạt 143 nghìn tấn với giá trị đạt 260 triệu USD, lũy kế xuất khẩu cà phê 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 1,32 triệu tấn và 2,5 tỷ USD, tăng 15,5% về khối lượng nhưng giảm 2,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Xuất khẩu hạt tiêu trong tháng 8/2018 ước đạt 20 nghìn tấn, với giá trị đạt 58 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu hạt tiêu 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 173 nghìn tấn và 576 triệu USD, tăng 3,2% về khối lượng nhưng giảm 36% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Xuất khẩu cao su trong tháng 8/2018 đạt 163 nghìn tấn với giá trị đạt 207 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu cao su 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 870 nghìn tấn và 1,2 tỷ USD, tăng 8,2% về khối lượng nhưng giảm 11,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Trung Quốc, Ấn Độ, và Malaysia là 3 thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2018, chiếm thị phần lần lượt 63,3%, 5,7% và 3,9%. Các thị trường tăng mạnh cả về lượng và giá trị xuất khẩu cao su trong 7 tháng đầu năm 2018 là Ấn Độ (tăng 46,43% về lượng và 28,88% về giá trị) và Indonesia (tăng 41,03 % về lượng và 17,79% về giá trị).
Đáng chú ý, xuất khẩu chè trong tháng 8/2018 ước đạt 13 nghìn tấn với giá trị đạt 21 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu chè 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 81 nghìn tấn và 133 triệu USD, giảm 10,1% về khối lượng và giảm 7,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Cũng theo Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, giá trị xuất khẩu thủy sản trong tháng 8/2018 ước đạt 739 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2018 ước đạt 5,5 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2017. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường xuất khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2018, chiếm 53,8% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.
Theo báo Công thương