Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp có thể nảy sinh tư tưởng giữ đất dù bỏ hoang
28 | 05 | 2020
Đó là ý kiến của một số đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận ngày 25/5 về dự thảo Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.

Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp: Lo ngại sử dụng đất lãng phí

Đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Giang) cho rằng chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp thời gian qua đã góp phần thúc đẩy sử dụng đất nông nghiệp nhưng mặt trái của chính sách là, việc không phải chịu thuế sử dụng đất sẽ làm giảm áp lực sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, đất đai manh mún.

Nhiều nông dân không còn mặn mà, bỏ hoang nhưng không phải chịu trách nhiệm vì đó là của cho không nên vẫn giữ mà không giao lại cho những tổ chức, cá nhân có nhu cầu thực sự.

"Tôi đề nghị có giải pháp khắc phục vấn đề này, đặt tư liệu sản xuất đúng người, tránh lãng phí nguồn lực" - ông Lâm nói.

Đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cũng cho rằng, nếu kéo dài chính sách sẽ mất đi chức năng của thuế sử dụng đất, trong đó có chức năng phân phối lại, bởi khi miễn phí, nhiều người dù không còn sản xuất vẫn giữ lại đất, không muốn giao cho những người có nhu cầu, từ đó, gây lãng phí nguồn lực.

Đối với việc chính sách miễn thuế sử dụng đất ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, đúng là số tiền 7/000 tỷ đồng/năm không ảnh hưởng nhiều đến ngân sách nhưng cũng không có tác động  nhiều đến sản xuất, vì chia đều cho số hộ nông dân thì mỗi hộ chỉ được 1 triệu đồng/năm, con số này chỉ mang ý nghĩa tinh thần. Đó là chưa kể, việc này có thể còn thúc đẩy tình trạng bỏ hoang đất.

"Chỉ có nguồn lực vô hạn thì mới áp dụng chính sách miễn phí, nguồn lực hữu bạn phải có phí, trong khi đất đai là nguồn lực hữu hạn, nhiều nước cũng có chính sách thuế. Do vậy, theo tôi, nếu kéo dài chính sách này sẽ không còn hiiệu quả vì đã kéo dài 20 năm, nên có chính sách mới để sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp" - ông Cường nhấn mạnh

 

 

Quốc hội bàn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp:  Kích thích đầu tư vào nông nghiệp - Ảnh 1.

Nông dân được lợi 7.500 tỷ đồng/năm nhờ chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. (Trong ảnh: Nông dân Bạc Liêu chăm sóc lúa). Ảnh: Thanh Cường

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, việc tiếp tục miễn thuế SDĐNN là biện pháp khuyến nông thông qua thuế, góp phần tạo cơ sở cho tập trung đất nông nghiệp để phát triển nông nghiệp hiện đại theo hướng ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tỷ trọng lao động nông nghiệp ở nông thôn. 

Việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025 sẽ không làm giảm thu ngân sách nhà nước do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế.

Quốc hội bàn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp:  Kích thích đầu tư vào nông nghiệp - Ảnh 2.

Đồng quan điểm, tại báo cáo thẩm tra về dự án Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, ông Nguyễn Đức Hải - Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng cho rằng, việc ban hành chính sách miễn thuế SDĐNN giai đoạn 2021-2025 là cần thiết nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, giảm bớt khó khăn cho người nông dân, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp.

Tuy nhiên, theo ông Hải, cũng có ý kiến cho rằng, việc thực hiện miễn thuế SDĐNN trên thực tế còn một số tác động thiếu tích cực khi không tạo động lực thúc đẩy đối với nhiều đối tượng là tổ chức, cá nhân trong việc canh tác, sản xuất trên diện tích đất được giao, gây nên tình trạng hoang hóa, lãng phí nguồn lực đất đai...

"Do đó, đề nghị cần bổ sung các quy định chặt chẽ hơn trong dự thảo Nghị quyết để chính sách miễn thuế SDĐNN thực sự có tác động đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hạn chế việc bỏ hoang hóa ruộng đất, tránh lãng phí nguồn lực đất đai" - ông Hải đề nghị.

Cần đảm bảo sự minh bạch

Đồng tình, nhất trí cao với dự thảo Nghị quyết về miễn thuế SDĐNN, tuy nhiên, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, cần đảm bảo sự minh bạch trong quá trình thực hiện.

Đại biểu Trần Thị Hoa Ry (Bạc Liêu) cho rằng, nếu tiếp tục cho kéo dài chính sách sẽ không thể nào giải quyết dứt điểm vấn đề vi phạm sử dụng đất, làm giảm hiệu quả sử dụng đất. "Tôi đề nghị trong nghị quyết mới cần có sự nhấn mạnh vấn đề này để đảm bảo công tác quản lý, sử dụng đất có hiệu quả" – bà Ry nhấn mạnh.

Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cho rằng, việc thực hiện chính sách miễn thuế SDĐNN sẽ góp phần thu hút đầu tư vào nông nghiệp. "Hiện có 50.000 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có khoảng 10.200 doanh nghiệp trực tiếp đầu tư phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản. Để góp phần đạt mục tiêu về số lượng doanh nghiệp hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đến năm 2030 và tăng tốc độ tăng trưởng nông - lâm - thủy sản đạt 3%/năm, trong thời gian tới, việc tiếp tục thực hiện chính sách miễn thuế SDĐNN như quy định hiện hành là cần thiết" - ông Phương nhấn mạnh.

Tuy nhiên, ông Phương cho rằng, phải xem xét kỹ lưỡng, công khai, minh bạch, chỉ đạo chặt chẽ trong việc quản lý thực hiện giảm thuế đúng đối tượng, nâng cao kết quả, hiệu quả quả sử dụng đất, hạn chế việc bỏ hoang hóa ruộng đất, không để lợi dụng vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hoặc tham nhũng, lãng phí.

Trong khi đó, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) kiến nghị Chính phủ nghiên cứu các đối tượng còn lại thuộc diện nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác trực tiếp sản xuất, sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, diện tích đất nhà nước mà nhà nước giao cho đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng cũng đề nghị giảm 100% thay vì chỉ 50%.

Đại biểu Nguyễn Hồng Vân (Phú Yên) lại đề nghị kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN đến hết ngày 31/12/2030, tức là 10 năm, để vừa là đảm bảo tính ổn định nhưng thể hiện tính nhất quán về chủ trương, chính sách của Đảng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và sẽ tạo động lực tốt hơn. 

Quá trình 20 năm thực hiện chính sách miễn, giảm thuế SDĐNN cho thấy, tổng số thuế miễn, giảm giai đoạn 2003-2010 trung bình khoảng 3.268,5 tỷ đồng/năm; giai đoạn từ 2011-2016 trung bình khoảng 6.308,3 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2017-2018 và dự kiến đến hết năm 2020 khoảng 7.438,5 tỷ đồng/năm.

 



Báo cáo phân tích thị trường