Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Thiếu rau sạch, rau an toàn đâu chỉ lỗi tại nông dân?
10 | 12 | 2007
- Trước những diễn biến khó lường của các loại dịch bệnh như hiện nay người tiêu dùng càng quan tâm hơn đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm với yêu cầu sản phẩm an toàn cho sức khỏe.
Trong các bữa ăn hàng ngày, món rau xanh hết sức cần thiết cho con người khó có thể thay thế được. Thế nhưng, khi đời sống thu nhập của người dân ngày càng cao càng đòi hỏi khắt khe hơn lđể được ăn đa dạng, phong phú chủng loại rau nhưng phải an toàn. Sản xuất rau an toàn (RAT) đang đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc về giải pháp, quy trình và đặc biệt là mối quan hệ giữa người trồng rau và người tiêu dùng chưa gặp nhau. Việc thiếu các cửa hàng RAT, không phân biệt được RAT với rau thường và thiếu RAT đâu phải chỉ đổ lỗi tại nông dân?

Về tiềm năng tỉnh ta có nhiều vùng đất bãi ven sông phù sa mầu mỡ gắn với một số địa danh có kinh nghiệm về nghề trồng rau lâu đời như: Vân Canh, Song Phương, Vân Côn (Hoài Đức); Kim An (Thanh Oai); Yên Nghĩa (Hà Đông); Tân Minh, Thư Phú (Thường Tín)... Tuy nhiên thói quen tập quán canh tác trồng rau thông thường, rau đại trà của nông dân các vùng rau có tiếng này vẫn là bón nhiều đạm, dùng phân tươi và đặc biệt là phun thuốc trừ sâu tùy tiện,... khiến người tiêu dùng ăn phải có nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy, ngộ độc, ung thư rất cao.

Trước sự báo động của bệnh tật, môi trường ô nhiễm nặng và cũng là vấn đề đáng quan tâm trong nông nghiệp, từ năm 2005 đến nay, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã xây dựng mô hình sản xuất RAT khoảng 40-50ha mỗi năm. Mặc dù đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật, tập huấn cấp phát tài liệu và hỗ trợ 1 phần vật tư phân bón sạch nhưng việc sản xuất RAT vẫn gặp nhiều khó khăn, khó mở rộng do nhiều nguyên nhân.

Những hộ tham gia nhận thức và thói quen của nông dân chưa có sự chuyển biến nên vẫn còn tình trạng lén lún bón nhiều đạm, dùng nước phân chuồng tươi, phân tươi; nước giải bón cho rau dẫn đến hàm lượng NO3, các kim loại nặng, dư lượng hóa chất tồn dư quá cao. Điều đặc biệt quan tâm là do chưa có cơ quan nào cấp đăng ký, tạo thương hiệu cho RAT nên giá bán không chênh lệch nhiều với rau thông thường nên chưa khuyến khích được người trồng rau.

Những hộ trồng RAT của HTX Phương Bảng (Hoài Đức) giãi bày: Khái niệm RAT ở nước ta còn rất mới, để người tiêu dùng nhận biết được RAT cần phải tuyên truyền, khuyến cáo và có sự phối hợp đồng bộ từ nhiều cấp; Nhà nước và DN, tập thể (HTX) và nông dân. Mặc dù ở đây đã tuân thủ quy trình sản xuất như xử lý đất, không dùng phân tươi, hạn chế tối đa dùng thuốc trừ sâu, bệnh, bảo đảm thời gian cách ly... nhưng cho đến nay vẫn chưa có đơn vị nào xác nhận chất lượng sản phẩm vì thế giá bán RAT không cao hơn rau thông thường, trong khi đó chi phí sản xuất cao hơn nhiều. Hiện tại người trồng rau chỉ bán được theo hợp đồng khoảng 30% số lượng, còn lại phải tự bán trôi nổi trên thị trường, phải gửi lẫn vào các quầy rau sạch, bẩn pha tạp.

Ông Nguyễn Văn Chí, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh cho rằng: Sản xuất RAT hết sức nan giải do chưa có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm vấn đề này. Hiện nay chưa có DN và hệ thống cửa hàng đứng ra bao tiêu RAT, chưa có cơ quan chức năng kiểm định xác định thương hiệu cho RAT... Lý do chính là rất khó kiểm tra được chất lượng do khâu kiểm soát quy trình sản xuất RAT gặp nhiều khó khăn.

Việc đăng ký nơi sản xuất, nguồn gốc RAT có thể làm được nhưng gắn thương hiệu cho RAT ở từng điểm thì chưa làm được. Thực tế hiện nay, nhu cầu tiêu thụ thị trường RAT lớn nhưng việc tính toán quy hoạch vùng, chọn điểm sản xuất RAT còn khó khăn do địa bàn rộng, nhiều hộ tham gia, nên không đủ cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, giám sát, kiểm soát và cái bí là vẫn loay hoay chưa có “đầu ra” cho RAT trong khi rau sạch, rau mất an toàn cứ lẫn lộn.

Ông Chu Văn Thưởng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho rằng: Phải bắt đầu từ quá trình sản xuất, đào tạo huấn luyện nhân dân, quy hoạch vùng và phải có quy trình giám sát trong lĩnh vực sản xuất RAT. Cần có cơ chế của tỉnh, trước mắt có chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ tập huấn chuyển giao kỹ thuật và sự phối hợp liên kết “4 nhà” để thực hiện đồng bộ các giải pháp: Quy hoạch vùng RAT (chọn đất, nguồn nước tưới sạch, hộ trồng rau có kinh nghiệm...) có cơ quan giám sát Sở Khoa học công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT để công nhận gắn thương hiệu cho RAT. Tìm kiếm DN, khách sạn, hệ thống cửa hàng ký hợp đồng tiêu thụ. Như vậy rất cần sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước để chi phí cho các hoạt động kiểm tra, phân tích đất, nước đủ điều kiện, giám sát quy trình và lấy mẫu, xây dựng thương hiệu cho RAT.

Hiện nay trên thị trường tình cảnh “treo đầu dê bán thịt chó”, cửa hàng bán RAT nhưng hết thì nhập cả rau lẫn lộn, rau không có nguồn gốc đang làm mất niềm tin từ người tiêu dùng, chính là do chưa có cơ quan nào kiểm định chất lượng. Lời giải cho vấn đề trên chính là phải nâng cao nhận thức từ phía nhà sản xuất và người tiêu dùng. Các DN, các nhà thu mua cần tổ chức các điểm bán công khai đủ điều kiện RAT, cần có sự liên kết các trung tâm thương mại, siêu thị để tháo gỡ “đầu ra” cho RAT.

Sản xuất và tiêu thụ RAT đang là bài toán nan giải cần sự giải quyết nỗ lực từ phía Nhà nước (Sở, ban, ngành liên quan), người trồng rau, DN (đơn vị thu mua, dịch vụ) và người tiêu dùng với một sự liên kết phù hợp có một chính sách rõ ràng. Không chỉ đổ lỗi cho người trồng rau, nông dân ở vùng có kinh nghiệm đã gắn bó với cây rau nhiều năm qua đang mong chờ một cơ chế, chính sách phù hợp để yên tâm sản xuất RAT phục vụ cho thị trường trong thời buổi hiện nay để RAT không là mầm họa cho sức khỏe con người.


Nguồn: www.chebien.gov.vn
Báo cáo phân tích thị trường