Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Điều kỳ diệu đằng sau những mô hình tài chính
12 | 09 | 2007
Các mô hình tài chính, không còn nghi ngờ gì nữa, có một sức mạnh kỳ điệu. Chúng có thể đem lại những kết quả mà cả những người luôn tự cho là mình hiểu hoạt động của doanh nghiệp của mình đến tận chân tơ kẽ tóc cũng phải kinh ngạc!
 

Mô hình tài chính của công ty là tập hợp của cả một loạt các công thức. Những biến số được sử dụng trong đó là những tham số quan trọng nhất về hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả của quá trình xây dựng mô hình tài chính là một bộ giấy tờ bao gồm 3 loại báo cáo tài chính quan trọng nhất – balance (cán cân tài chính), báo cáo lỗ lãi và báo cáo về chuyển động dòng tiền. Đi kèm với chúng là một bộ tài liệu phân tích những giải pháp cần làm dưa trên cơ sở các báo cáo trên. Rất nhiều khi những kết luận rút ra trên cơ sở mô hình hoạt động của doanh nghiệp lại khác hẳn với những dự đoán của những người từng lăn lộn với doanh nghiệp nhiều năm trời.

Bước lên một tầm mới

Tính liên kết của các dữ liệu, cộng với sự uyển chuyển và tầm nhìn xa chính là những điểm khác biệt cơ bản của mô hình tài chính nếu đem so sánh với các hệ thống kế toán, hoạch định ngân sách, kế hoạch kinh doanh thông thường, mặc dù chúng, xét cho cùng, cũng là những mô hình và cũng liên quan đến tài chính.

Tuy nhiên, theo giới chuyên môn, các hệ thống kế toán thông dụng hiện nay tập trung vào các thông tin quá chi tiết. Theo ý kiến của Andrey Dikushin, đồng cổ đông của công ty “Finansovyi Hronograph”, phụ trách giảng dạy môn thiết lập mô hình tài chính cho các sinh viên LHS, việc sử dụng dữ liệu thô lấy từ bộ phận kế toán chính là sai lầm thường hay gặp nhất của những người mới "tập tọng" làm tài chính hoặc của các nhân viên kế toán có nhiệm vụ lên mô hình tài chính cho công ty. Các dữ liệu ban đầu cần phải được liên kết với nhau bằng một công thức gọn nhẹ song phải thể hiện được bản chất và phù hợp với loại hình hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn như, đối với một nhà hàng thì những dữ liệu cần thiết hơn cả là số lượt khách trung bình và giá trị trung bình của phiếu thanh toán.

Dự thảo ngân sách với đặc điểm là sử dụng những dữ liệu có tính chất lịch sử cũng không phù hợp với việc lập mô hình tài chính. Andrey Dikushin cho biết: “Dựa hoàn toàn vào những dữ liệu trong quá khứ cũng giống như đi xe mà chỉ nhìn vào kính hậu. Nó có thể sẽ đúng nếu tình hình ổn định, song nếu muốn nhìn về tương lai xa hơn 1 chút mà chỉ dựa vào những dữ liệu về quá khứ có trong tay thì hầu như chỉ ra một dự báo vớ vẩn, khác xa với thực tế sau đó”.

Mô hình bao giờ cũng hàm ý phải có sự uyển chuyển. Nó cần phải cho phép điều khiển các dữ liệu ban đầu. Chính vì vậy mà mô hình tài chính không đồng nghĩa với kế hoạch kinh doanh (business-plan), hoặc ít ra là với hình dung phổ biến về business-plan. Từ góc độ xây dựng mô hình tài chính, việc lập ra các mô hình khác nhau với các kịch bản khác nhau cho các đối tượng khác nhau là hoàn toàn bình thường. Chẳng hạn, khi bạn đến ngân hàng để xin tín dụng, những giả thiết của bạn về tương lai của doanh nghiệp cùng những thay đổi của môi trường bên ngoài cần phải xây dựng theo hướng bảo thủ hơn, tức là không phải phương án diễn biến theo hướng tốt nhất. Như vậy, bạn sẽ dễ tìm được tiếng nói chung với chuyên viên cấp tín dụng hơn. Nếu bạn đến gặp nhà đầu tư mạo hiểm, bạn cần phải đưa ra phương án cho thấy tốc độ tăng trưởng của công ty bạn theo hướng lạc quan nhất. Nhiệm vụ của bạn lúc này sẽ là làm sao để thuyết phục nhà đầu tư mạo hiểm tin rằng công ty của bạn thực sự có khả năng thực hiện được kế hoạch phát triển đầy tham vọng này.

Bắt đầu từ mô hình kinh doanh

Mô hình tài chính bao gồm nhiều phần. Để ra một mô hình tài chính chuẩn, đầu tiên, cần có một mô hình chính xác về hoạt động của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của nó là thể hiện được phần hoạt động hữu hình (sản xuất, tiêu thụ) của công ty. Dmitry Peil, chuyên viên tài chính của "Finansovyi Hronograph" cho biết, khi có một mô hình hoạt động thích hợp, việc lên mô hình tài chính sẽ gần như không thể có sai sót. Ngược lại, nếu bức tranh hoạt động của doanh nghiệp không thể hiện đúng trong mô hình hoạt động, điều này hiển nhiên sẽ dẫn đến là mô hình tài chính sẽ sai lệch theo.

Để lên được mô hình hoạt động của công ty, cần có sự tham gia của toàn bộ lãnh đạo các bộ phận chức năng của công ty – từ sản xuất, marketing, nhân sự, điều vận cho đến các chuyên viên thuộc các lĩnh vực hẹp. Trong mô hình hoạt động cần có nhận định về tương lai của thị trường, có thể là dự báo về những đợt tăng cầu theo mùa, mức doanh số có thể thực hiện được hay xu hướng dịch chuyển của giá cả. Các chuyên viên sản xuất cần phải có trong tay định mức cho các loại chi phí, phải đưa ra những dữ liệu chính xác về việc khi nào thì sẽ cần phải thay đổi máy móc... Thực tế cho thấy, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Thường thì tại các doanh nghiệp mọi người điều hiểu là có thể bán sản phẩm với giá bao nhiêu, song lại không biết có những quy luật nào trong sản xuất và hệ thống giá cả được xây dựng ra sao. Kết quả là dự báo về chi phí trong mô hình sẽ không chính xác và vì vậy mà không có giá trị là bao.

Những trang vàng

Một phần quan trọng nữa của mô hình tài chính là disclaimer (các giả thiết). Mục đích của nó là cho thấy, người lập mô hình đã dựa trên những giả thiết nào về thế giới xung quanh và những biến số nào được sử dụng khi lập mô hình và khoảng dao động của các biến số rộng đến đâu.

Theo lời của Iuri Volkov, trong danh sách này có thể có 20, 30 hay thậm chí là 50 tham số. Các dữ liệu được lấy từ những nguồn thông tin độc lập và có uy tín – chẳng hạn, có thể là dự báo của Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, các hiệp ngành hay các nhà phân tích có tiếng tăm.

Tiếp đó là phần tính toán bao gồm danh sách các khoản thu, danh sách các khoản chi và các khoản đầu tư. Cách tính thu nhập và chi phí thô sơ nhất là tính theo tỉ lệ tăng trưởng bán hàng. Tuy nhiên, theo Nicolai Sergeev, chuyên viên đầu tư của Eastway Capital, cách suy đoán này thường hay đưa ra những kết quả sai lệch, do còn có những mối liên quan khác nữa. Chẳng hạn, tăng trưởng bán hàng không phải lúc nào cũng dẫn đến việc tăng số lượng nhân viên bán hàng theo tỉ lệ tương ứng, và cũng có nghĩa là không cần phải tăng diện tích văn phòng.

Danh sách các khoản tiền đầu tư giúp thấy được vào thời điểm nào sẽ có những khoản tiền nào được rót vào từ bên ngoài (do đòi được nợ hoặc cổ đông tăng vốn), còn những khoản nào sẽ được tạo ra trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và được phân bổ ra sao: phần nào được đưa vào đầu tư, phần nào cần được thanh toán dưới dạng lãi cổ tức. Như vậy, một trong những nhiệm vụ của danh sách này là xác định nhu cầu huy động đầu tư từ bên ngoài. Khi xem mô hình tài chính,bỏ qua các khoản đầu tư từ bên ngoài vào, có thể thấy rõ giai đoạn nào sẽ cần và cần bao nhiêu tiền. Sau đó, có thể chọn những yêu cầu đối với khoản đầu tư phù hợp – cách đầu tư, phần trăm, ngoại tệ, lịch trả nợ... và xem những đặc điểm nào phù hợp với nhu cầu hơn.

Một mục đích khác nữa của việc sử dụng danh sách các khoản đầu tư là nó cho phép xác định được khoản vay nào hợp với sức của doanh nghiệp. Theo Andrey Dikushkin, nếu như cách đây vài năm, câu trả lời thường là: "vay được bao nhiêu tốt bấy nhiêu", thì giờ đây, các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ xem họ cần vay bao nhiêu và với phần trăm như thế nào. Và mô hình tài chính cũng sẽ giúp họ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này.

Độ nhạy cảm

Sau khi lập xong các mẫu biểu tính toán thì tiếp đến là cần phải lập các mẫu biểu dự báo – cũng chính là 3 loại báo cáo (cán cân thanh toán, báo cáo lỗ lãi và báo cáo chuyển động tiền). Tuy nhiên, đôi khi có thể đơn giản hóa công đoạn này. Theo lời Iuri Volkov, thường là balance không nói lên thông tin quan trọng gì (như trong lĩnh vực dịch vụ chẳng hạn), khi đó có thể không cần làm. Khoảng thời gian để làm báo cáo định kỳ có thể là hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm – tùy thuộc vào việc mô hình được xây dựng cho mục đích gì. Nếu là để đánh giá hoạt động doanh nghiệp, khoảng thời gian cập nhật là một năm sẽ là hợp lý, còn để xin tín dụng thì có thể cập nhật theo quý. Trong vòng dưới 1 tháng các thông tin thô thường khó đầy đủ, vì vậy mà không cần thiết phải làm báo cáo thường xuyên hơn từng tháng một.

Phần phân tích sẽ bao gồm các chỉ số tổng kết. Đó là các chỉ số mục tiêu – nhiệm vụ căn bản của mô hình tài chính này. Và trang cuối cùng là trang phân tích độ nhạy cảm của mô hình. Khi thay đổi các giá trị của các tham số (chẳng hạn, đưa ra những mức độ lạm phát khác nhau) trong danh phần giả thiết, trong phần mô hình hoạt động của doanh nghiệp hay khi thay đổi công thức trong phần tính toán, có thể thấy được những chỉ số nhạy cảm nhất trong mô hình tài chính này.

Chính ở đây sẽ có thể có những bất ngờ lớn nhất. Chẳng hạn, theo Iuri Volkov, với kinh nghiệm nhiều năm lập mô hình cho các doanh nghiệp thuộc ngành dầu khí của Nga, hoàn toàn có thể xảy ra là những dao động của giá dầu trên thế giới lại không mấy ảnh hưởng đến các công ty dầu khí Nga. Hoặc đối với một số dự án đầu tư thì mức phần trăm thanh toán trước thời hạn lại không có ý nghĩa lắm dù đây là một trong những chỉ số quan trọng nhất.

Đừng phức tạp hóa vấn đề

Một trong những vấn đề gây bàn cãi nhiều nhất xung quanh việc lập mô hình tài chính là xác định độ phức tạp cần thiết của mô hình. Rõ ràng là mô hình không nên thể hiện quá ít các mối liên hệ. Nicolai Sergeev cho biết: "Nhiều đồng nghiệp của tôi có ý kiến là các mô hình tôi lập ra quá phức tạp. Song khi thương thảo, nếu cho đối tác thấy là chúng tôi đã lưu ý đến ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau khi dự đoán mức tăng trưởng của công ty thì sẽ dễ thuyết phục hơn. Tôi cho rằng như vậy chắc chắn hơn".

Tuy nhiên, mô hình phức tạp quá cũng có thể làm nảy sinh vô số vấn đề. Kinh nghiệm thực tiễn của các chuyên gia lập mô hình cho thấy: phần lớn những mô hình phức tạp, được lập "theo sách" lại không thể áp dụng trên thực tế. Sự đơn giản chính là dấu hiệu về một chuyên gia tài chính có tay nghề cao. Dmitry Peil cho biết: "Khi người lập mô hình là một người học sâu về toán, anh ta thường hay lạm dụng các kỹ thuật xử lý số liệu. Họ rất hay quên rằng mô hình cần một sự mô tả có hồn, chứng tỏ người lập hiểu rõ bản chất của các quy trình dẫn đến những mối liên quan này, trong khi những biện pháp thống kê và các phép toán phức tạp thường không giúp được cho việc này là mấy".

Theo Iuri Volkov, trong 1 mô hình không nên có quá 5 tham số quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Nếu có nhiều hơn thì người đọc sẽ không chú ý đến những kết quả cuối cùng nữa. Hơn nữa, thường có cảm giác là các dữ liệu ban đầu không có liên quan đến nhau. Mặc dù trên thực tế không hẳn là như vậy, song nếu cố nhồi nhét tất cả các mối liên hệ giữa các dữ liệu vào trong một mô hình thì mọi thứ sẽ rối tung lên. Elena Kuvshinnhikova, cán bộ trung tâm đào tạo dạy nghề thuộc "Ernst 'N Young" cho rằng, nếu như nhiệm vụ của mô hình là giúp xác định chiến lược cho công ty, lựa chọn hướng phát triển giá trị của doanh nghiệp thì không nên phức tạp hóa vấn đề. "Thậm chí đơn giản hóa mô hình đến một mức độ nhất định có thể làm đơn giản hóa việc đưa ra các quyết định có tính chất chiến lược, làm sáng rõ những vấn đề quan trọng và "tách gạo khỏi trấu".

Sức mạnh của sự đơn giản

Trong phần lớn trường hợp, mô hình tài chính được lập bằng Excel. Trong khi đó, trên thị trường cũng có rất nhiều chương trình viết sẵn chuyên phục vụ cho việc lập mô hình tài chính. Người ta thường lý giải việc lựa chọn các chương trình chuyên dụng này theo kiểu: tại sao phải chế tạo lại xe đạp trong khi mọi thứ đã được nghĩ ra từ lâu? Tuy nhiên, những chuyên gia đã có kinh nghiệm xây dựng các mô hình tài chính lại nghĩ khác. Theo họ, nhược điểm chính của các chương trình viết sẵn là chúng giống như một "hộp đen" đối với người sử dụng. Rất khó có thể giải thích được kết quả của một chương trình lập mô hình có sẵn, mà khi không hiểu công thức được áp dụng, không thể giải thích được kết quả thu được. Chính vì vậy mà nhiều người sử dụng khi đạt được một trình độ nhất định trong việc tạo mô hình thường chuyển sang dùng Excel.

Theo ý kiến của Iuri Volkov, các chương trình có sẵn còn có nhược điểm nữa là chúng thường được định hướng cho người sử dụng trung bình, và vì vậy, chúng không có độ uyển chuyển cần thiết mà các nhà chuyên nghiệp cần. Phần lớn chúng được xây dựng để phù hợp cho một dự án đầu tư từ đầu và bị tách rời khỏi các yếu tố hoàn cảnh (chẳng hạn như tiền đầu tư được tính là đưa vào toàn bộ và ngay từ đầu). Song trên thực tế, mỗi một dự án đều có những đặc trưng riêng. Rất nhiều khi mô hình được xây dựng cho những hoạt động kinh doanh đã có (như hiện đại hóa sản xuất chẳng hạn). Tiền thực hiện dự án thường có thể được "rót" từ ngoài vào bởi một số cá nhân nào đó, có thể là khoản thanh toán từ phía khách hàng (một thực tế thường thấy trên thị trường bất động sản hiện nay). Và rõ ràng là không thể chọn được một chương trình có sẵn phù hợp cho các tình huống rất riêng này



Theo: www.vncompanies.com
Báo cáo phân tích thị trường