Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Bản tin phân tích thị trường Lúa gạo tháng 11/2018
01 | 12 | 2018
Bản tin phân tích thị trường Lúa gạo tháng 11/2018

Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 năm 2018 ước đạt 496 nghìn tấn với giá trị đạt 241 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2018 ước đạt 5,7 triệu tấn và 2,9 tỷ USD, tăng 5,6% về khối lượng và tăng 17,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2018 với 24,1% thị phần. Xuất khẩu gạo sang thị trường này trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 1,24 triệu tấn và 636,2 triệu USD, giảm 39,1% về khối lượng và giảm 30% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Mười tháng đầu năm 2018, các thị trường có giá tr ị xuất khẩu gạo tăng mạnh là Indonesia (gấp 65,8 lần), Irắc (gấp 2,6 lần), Hồng Kông (tăng 71,1%), Philippin (tăng 58,5%) và Malaysia (tăng 17,2). Giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2018 đạt 504 USD/tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2017.

Về loại gạo xuất khẩu, trong 10 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu gạo trắng chiếm 51% tổng kim ngạch; gạo Jasmine và gạo thơm chiếm 32%; gạo nếp chiếm 12% và gạo Japonica, gạo giống Nhật chiếm 5%. Thị trường xuất khẩu gạo Jasmine và gạo thơm lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc (25%), Ghana (23%) và Bờ Biển Ngà (14%). Với gạo nếp, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất, chiếm tới 82% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo nếp của Việt Nam, trị giá 272 triệu USD. Về gạo Japonica và gạo giống Nhật, hai thị trường xuất khẩu chủ yếu là Papua New Guinea (57%) và Trung Quốc (13%).

Tháng 11/2018, giá lúa gạo diễn biến tăng nhẹ tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) do nhu cầu tiêu thụ cải thiện trong bối cảnh nguồn cung hạn hẹp. Theo hệ thống cung cấp giá tại địa phương, tại An Giang, lúa IR50404 tăng 200 đ/kg, từ 5.500 đ/kg lên 5.700 đ/kg; lúa chất lượng cao OM 5451 ổn định ở mức 5.700 đ/kg, gạo tẻ IR50404 ở mức 10.000 đ/kg; gạo chất lượng cao tăng 500 đ/kg lên mức 13.000 đ/kg; gạo thơm đặc sản jasmine ở mức 14.000 đ/kg. Tại Vĩnh Long, lúa IR50404 tăng 100 đ/kg lên mức 5.400 đ/kg; lúa khô IR50404 ở mức 5.900 đ/kg; gạo IR50404 tăng 2.000 đ/kg lên mức 12.000 đ/kg; gạo jasmine tăng 2.000 đ/kg lên mức 14.000 đ/kg. Tại Bạc Liêu, giá lúa khô OM 5451 bán buôn giảm 50 đ/kg xuống còn 6.150 đ/kg. Tại Kiên Giang, lúa IR50404 tăng 200 đ/kg lên mức 6.000 – 6.200 đ/kg; lúa OM 4218 tăng 400 đ/kg lên 6.400 - 6.600 đ/kg; lúa OM 6976 tăng 200 đ/kg lên mức 6.500 - 6.600 đ/kg; lúa Jasmine tăng 200 đ/kg lên mức 7.200 – 7.500 đ/kg.

Dự báo cả năm 2018, gạo xuất khẩu giữ vững đà tăng trưởng, kỳ vọng có thể đạt 6,15 triệu tấn với kim ngạch đạt 3,15 tỷ USD, tăng 5,7% về lượng và 19,6% về trị giá so với năm 2017. Mục tiêu này có thể đạt được bởi thị trường gạo trong những tháng cuối năm đang có tín hiệu nhập khẩu từ Indonesia và Philippin. Trong phiên mở thầu nhập 500.000 tấn gạo loại 25% tấm ngày 20/11 của Philippin, Việt Nam đã giành được hợp đồng xuất khẩu với khối lượng 118.000 tấn. Dự báo Ai Cập sẽ phải nhập khẩu 500.000 tấn gạo trong đầu năm tới do giảm diện tích canh tác. Trong phiên thầu mua gạo quốc tế đầu tiên của Ai Cập trong năm 2018, có 1 mẫu gạo từ Việt Nam đã qua được vòng kiểm nghiệm.

Theo IPSARD/MARD



Báo cáo phân tích thị trường