8. Đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp xã hội là cách lựa chọn hợp lý để xây dựng hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định: “Bảo vệ và phát triển rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để định canh, định cư, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt, phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm rừng”.
Cần khẳng định “ xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp” là phương hướng cơ bản để xây dựng hệ thống CSLN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay vì: Phát triển lâm nghiệp xã hội phù hợp với thực tiễn cơ cấu dân số, phân bố dân cư và trình độ kinh tế -xã hội, phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của gần 30 triệu cư dân sống ở vùng gần rừng; Có khả năng sử dụng và phát huy được mọi nguồn lực của người dân; Trên thực tế đã được nhân dân, nhất là nhân dân sống gần rừng đón nhận và thực hiện và đã xây dựng được những mô hình quản lý rừng có hiệu quả, có tác động tích cực đến PTLNBV.
9. Lâm nghiệp xã hội là một thuật ngữ phát sinh từ các nước đang phát triển, mới được sử dụng phổ biến trong những thập kỷ gần đây. Hơn nữa, tuỳ theo nhận thức của các nhà nghiên cứu, góc độ nghiên cứu, tình hình KTXH, tình hình rừng và yêu cầu của những vấn đề cần giải quyết ở các nước rất khác nhau, nên nhận thức về khái niệm, đặc trưng của lâm nghiệp xã hội ở các nước cũng rất đa dạng.
Hiện nay, nhận thức và khái niệm, nội hàm của Thuật ngữ “Lâm nghiệp xã hội và xã hội hoá lâm nghiệp” còn có nhiều điểm khác nhau (cả về mục tiêu, và nội dung, từ cơ quan hoạch định và tổ chức thực thi CSLN, đến tất cả các bên có liên quan) Nhiều nơi, nhiều lúc đang tồn tại những những nhận thức đơn giản, sai lầm về lâm nghiệp xã hội và xã hội hoá lâm nghệp. Trên thực tế đã có những nhận thức đơn giản về khái niệm LNXH và XHHLN, như:
· Cho rằng XHHLN là chuyển công nhân lâm nghiệp ở các lâm trường quốc doanh thành “nông dân làm nghề rừng”.
· Cho rằng XHHLN là giảm bớt vai trò của nhà nước đối với ngành lâm nghiệp để bớt gánh nặng về ngân sách đối với rừng, và
· Cho rằng XHHLN là chuyển từ “lâm nghiệp truyền thống” sang lâm nghiệp xã hội. Có người hiểu lâm nghiệp truyền thống là “lâm nghiệp quốc doanh”, “lâm nghiệp nhà nước . Có người hiểu “lâm nghiệp truyền thống” là “lâm nghiệp khai thác gỗ”.
10. Chúng ta không nên thảo luận các khái niệm theo kiểu “hàn lâm”, nhưng nếu các nhà hoạch định chính sách không giải thích thống nhất các khái niệm và nội hàm của thuật ngữ “lâm nghiệp xã hội” thì khó xác định đúng nội dung các chính sách lâm nghiệp cần xây dựng để đẩy mạnh thực hiện LNXH và XHHLN .
Theo chúng tôi, LNXH là thu hút được cao độ sự tham gia của người dân vào các hoạt động lâm nghiệp, từ những hoạt động về quản lý, bảo vệ kinh doanh rừng, nuôi trồng rừng đến khai thác, chế biến lâm sản và các dịch vụ lâm nghiệp khác dựa trên cơ sở tài nguyên rừng. Xã hội hoá lâm nghiệp là quá trình biến đổi từ nền kinh tế lâm nghiệp truyền thống sang xây dựng nền kinh tế lâm nghiệp xã hội với đặc trưng chủ yếu là phát huy vai trò của con người trong quá trình xây dựng và quản lý hệ sinh thái rừng .
Để nâng cao nhận thức về LNXH cần có những công trình nghiên cứu , tổng thuật về quá trình phát triển lâm nghiệp trên thế giới và nhiều hoạt động truyền thông, thông tin về LNXH và XHHLN để chuyển đến toàn xã hội những nhận thức thống nhất. Đó là giải pháp đầu tiên để thực hiện quá trình xã hội hoá lâm nghiệp ở nước ta
11. Thực hiện mục tiêu: “ Làm cho mỗi khu đất lâm nghiệp , mỗi cánh rừng đều có chủ, bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng” là khởi đầu của quá trình xã hội hoá lâm nghiệp.
Trong nhiều văn kiện của Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo vệ rừng là sự nghiệp của toàn dân” “Đẩy mạnh giao đất giao rừng ,“...làm cho mỗi khu đất, mỗi cánh rừng, mỗi quả đồi đều có người làm chủ cụ thể...”., “Thực hiện “xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng”. Đây là đường lối, chủ trương , chính sách phát triển lâm nghiệp mà Đảng đã đề ra ít nhất là gần 25 năm nay ( kể từ Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 12/11/1983 của Ban Bí thư TW Đảng (Khoá V). Sau gần một phần tư thế kỷ thực hiện Chỉ thị này, địa phương nào cũng đã thực hiện giao đất, giao rừng, có nơi đã giao đi, giao lại nhiều lần đến lần thứ 4, thứ 5. Nhiều số liệu công bố kết quả giao đất giao rừng rất khác nhau. Có thể khái quát những tồn tại về thực hiện chính sách giao đất giao rừng như sau:
+ Tiến trình giao đất lâm nghiệp rất chậm chạp và không nhất quán. Tư tưởng chung là không dám giao rừng hiện có mà chỉ giao đất chưa có rừng. Đến nay, tổng số đất được chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 7.106.995 ha, trong đó cấp cho hộ gia đình và cá nhân được 2.937.082 ha (bằng 41,3% tổng số đất đã giao). Số còn lại giao cho các tổ chức (với 4.384 giấy chứng nhận). (Theo Báo cáo giám sát việc Triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội về Dự án 5triệu ha rừng )
+ Nguời đựoc giao đất lâm nghiệp vẫn chưa nhận rõ là mình được làm chủ rừng đúng như khái niệm chung của từ ngữ “Ông chủ” đã được nhận thức trong dân gian và khái niệm về “chủ rừng” theo giải thích của Luật BV&PTR.
+ Số người đưa đất lâm nghiệp vào kinh doanh và diện tích đất lâm nghiệp đã giao được đưa vào kinh doanh còn quá thấp.
+ Chưa có nhiều người làm rừng sống được bằng nghề rừng.
Tuy vậy, trong thực tế cũng đã xuất hiện những điển hình tốt có đủ sức thuyết phục là đường lối nêu trên là chính xác. Vấn đề là, cần có nhận thức đúng và toàn diện về nội dung xã hội hoá lâm nghiệp và xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích và thúc đảy người nhận đất, nhận rừng sử dụng đất được giao vào mục đích lâm nghiệp và theo phương thức nông lâm kết hợp.
Cùng với nội dung nói trên, chính sách LN cũng cần nghiên cứu để thể chế hoá việc vận dụng đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần trong lâm nghiệp. Cho đến nay, số lượng, qui mô và năng lực của các trang trại nuôi trồng rừng và doanh nghiệp trồng rừng tư nhân còn quá ít. Hầu hết các trang trại và doanh nghiệp trồng rừng tư nhân chưa nhận được quyền sử dụng đất lâm nghiệp lâu dài và ổn định.
12. Xây dựng hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp xã hội
Hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thể hiện bằng hệ thống VBQPPL của các cơ quan nhà nước ở các cấp ban hành.
- Nội dung chủ yếu thường tập trung vào các chính sách và giải pháp để thu hút toàn xã hội , nhất là những cộng đồng dân cư sống gần rừng, sống dựa vào rừng tham gia vào các hoạt động về Quản lý, Bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng- vấn đề cơ bản nhất của lâm nghiệp .
- Phải xây dựng theo những nguyên tắc và phương pháp thống nhất.
- Có nhiều nhóm chính sách khác nhau được xây dựng phù hợp với những đối tượng cần tác động và điều chỉnh, nhưng phải tạo thành một hệ thống chính sách đồng bộ, thống nhất và hoàn chỉnh để huy động tốt nhất sự tham gia của nhiều nhóm lợi ích khác nhau.
13.Rà soát, hoàn thiện và hình thành hệ thống Chính sách LNXH trong thời kỳ mới:
Cho đến nay, chúng ta đã có nhiều VBQPPL về các chính sách lâm nghiệp Nhưng nhìn chung, có thể thấy là tính chất đồng bộ, liên kết và mức độ tác động của hệ thống chính sách này chưa có thể thu hút cao sự tham gia của nhân dân vào công tác lâm nghiệp và lợi ích của những người tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp bền vững chưa có sức khuyến khích và sức thu hút cao.
Vì vậy, để phát triển và XHHLN, cần đẩy mạnh rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách lâm nghiệp hiện hành để phục vụ cho mục tiêu phát triển LNXH ở những nội dung chính sau đây:
· Về Chính sách đất đai: Cần rà soát những chính sách, thủ tục và đánh giá việc tổ chức thực thi các VBQPPL về đất đai cụ thể để phát hiện và sửa chữa những điểm chưa hợp lý trong hoạch định và tổ chức thực hiện Luật đất đai nhằm bảo quyền sử dụng đất lâm nghiệp lâu dài và ổn định cho người dân, nhất là quyền được quyết định về những nội dung sử dụng đất đai theo đúng qui luật của kinh tế thị trường.
· Về Chính sách quản lý rừng: Cần xem xét và xây dựng các chính sách lâm nghiệp với mục tiêu phát huy đầy đủ vai trò tích cực của con người trong hệ sinh thái rừng. Vấn đề quản lý sử dụng rừng theo qui hoạch của 3 loại rừng là vấn đề cần thảo luận thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn để đỏi mới chính sách. Vấn đề “đóng cửa rừng tự nhiên “ , trồng cây bản địa, phát triển lâm sản ngoài gỗ là vấn đề cần thảo luận . Chính sách đát đai và Chính sách quản lý rừng phải liên kết chặt chẽ để tạo điều kiện cho dân cư sống gần rừng giải quyết được 5 nhu cầu cơ bản về: Lương thực, Chất đốt, Vật liệu xây dựng nhỏ, Đồng cỏ chăn nuôi và Các thu nhập bằng tiền từ rừng.
· Về chính sách phát triển nguồn nhân lực: Người dân là lực lượng chính để phát triển LNXH, nhưng đến nay gần như chưa có những chính sách cụ thể nào để phát triển nguồn nhân lực này. Phải có chính sách và phải cải tiến tổ chức và phương pháp truyền thông, giảng dạy để nâng cao kiến thức và kỹ năng lâm nghiệp đến cộng đồng.
· Về chính sách tài chính, thuế, đầu tư, tín dụng: Chính sách đầu tư và hỗ trợ đầu tư hiện hành chưa rõ ràng, lẫn lộn cả về nhận thức, cơ chế quản lý và sở hữu rừng cây.Tiếp theo là vấn đề hộ nông dân không tiếp cận trực tiếp được với các nguồn tín dụng của nhà nước. Đó là những vấn đề quan trọng nhất cần quan tâm.
· Về chính sách cơ cấu cây trồng, khoa học công nghệ và khuyến nông-lâm: Phát triển khuyến lâm, hỗ trợ giống cây rừng và xây dựng mô hình, thông tin thị trường và hướng dẫn người dân lựa chọn cơ cấu cây rừng để đạt năng suất cao và thu nhập cao là những vấn đề rất quan trọng.
· Về chính sách hỗ trợ đặc biêt đối với đồng bào dân tộc, miền núi và dân cư sống gần rừng: Đáng quan tâm nhất là nghiên cứu về chính sách sử dụng gỗ gia dụng phù hợp với tình hình rừng và lệ tục của từng dân tộc, từng vùng. Đi liền với quyền hưởng dụng các sản phẩm và lợi ích từng vùng cần có chế độ trách nhiệm cân xứng.
· Về thể chế phân cấp quản lý rừng: Vấn đề đáng quan tâm nhất là phân công rõ trách nhiệm quản lý nhà nước giữa các Bộ được giao quản lý các loại tài nguyên :Rừng-Đất-Nước- Khoáng sản và Môi trường. Tiếp theo đó là phân cấp quản lý tốt và hợp lý giữa chính quyền nhà nước ở 4 cấp: Trung ương-Tỉnh-Huyện-Xã