Nguồn: Nongnghiepmoitruong.vn
Tạo dựng niềm tin chắc chắn cho người dân
Tại Hội nghị tham vấn Dự thảo Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải ngày 30/7, ông Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT khẳng định, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để triển khai hiệu quả các mô hình canh tác nông nghiệp phát thải thấp, nhờ nền tảng kỹ thuật đã tích lũy từ trước và hệ thống hỗ trợ chuyên môn trải rộng khắp cả nước.
Việt Nam có lịch sử trồng trọt lâu đời và từng bước hiện đại hóa sản xuất trong những năm qua. Điểm mấu chốt trong việc xây dựng và triển khai đề án sắp tới, theo ông Doanh, không gói gọn ở việc phát triển thêm quy trình kỹ thuật mà ở chỗ, làm sao để nâng cao hiệu quả kinh tế và giúp người dân hiểu, tin và làm theo các nhiệm vụ giảm phát thải.

Nguyên Thứ trưởng Lê Quốc Doanh: 'Không cầu toàn trong lựa chọn cây trồng và vùng canh tác thuộc đề án'. Ảnh: Bảo Thắng.
Một trong những quan điểm đáng chú ý được ông Lê Quốc Doanh nêu ra là “không cầu toàn” trong lựa chọn cây trồng hay vùng canh tác. “Chúng ta đã có hệ thống quy trình kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh cho gần như toàn bộ các loại cây trồng chủ lực. Đồng thời, hệ thống các viện nghiên cứu, trường đào tạo chuyên ngành đã và đang hỗ trợ khắp các vùng sinh thái”, ông phân tích.
Do đó, theo ông, đề án cần linh hoạt, không nên đặt giới hạn về số lượng cây trồng hay khu vực địa lý được áp dụng. Thay vào đó, cần phát huy tinh thần thích ứng tại chỗ, chọn các mô hình phù hợp với điều kiện địa phương, từ đó nhân rộng các mô hình thành công.
Việc không cầu toàn cũng đồng nghĩa với việc không chờ đợi điều kiện lý tưởng, mà tận dụng ngay những gì đã có, tập trung vào chuyển giao, đào tạo và khuyến khích người dân áp dụng.
Là người trực tiếp chỉ đạo Dự án VnSAT, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT nhấn mạnh vai trò của truyền thông. Ông cho rằng, một trong những bước chuyển to lớn của ngành hàng lúa gạo và cà phê (2 trong số những cây trồng được đưa vào đề án), là đã xây dựng được niềm tin cho nông dân. Khi người dân tin vào hiệu quả của mô hình sản xuất bền vững, việc triển khai các nội dung kỹ thuật và thay đổi thói quen canh tác trở nên suôn sẻ hơn nhiều.
“Câu chuyện không nằm ở việc người dân có nghe không, mà là họ có tin hay không. Khi đã tin, thì triển khai sẽ rất dễ”, ông bày tỏ.
Vì vậy, ông đề xuất trong giai đoạn sắp tới, truyền thông cần đi trước một bước, đóng vai trò là cầu nối giữa kỹ thuật và người sản xuất, góp phần định hình nhận thức về phát thải nông nghiệp và lợi ích của các mô hình canh tác bền vững. “Muốn người dân chuyển đổi tư duy, truyền thông phải tạo ra sự đồng thuận từ bên trong, không chỉ đơn thuần cung cấp thông tin”, ông Doanh nhấn mạnh.
Với quan điểm phát thải thấp không chỉ là yêu cầu môi trường, mà là cơ hội để gia tăng giá trị kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh, ông Doanh tin rằng nếu đề án được triển khai tích cực, nông sản Việt sẽ có nhiều cơ hội vươn ra thị trường quốc tế, nhất là từ nền móng của hệ thống nghiên cứu về nông nghiệp trải dài trên cả nước.
“Chúng ta đã có nội lực, đã có mô hình mẫu thành công. Đề án này nên là bước tiếp theo để nhân rộng, nâng tầm các kết quả đó lên quy mô quốc gia và tiếp cận thị trường quốc tế một cách chủ động, bài bản”, ông gợi mở.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát: 'Cần tạo động lực để người dân chủ động giảm phát thải'. Ảnh: Bảo Thắng.
Cần tạo động lực kinh tế rõ ràng cho người dân
Ông Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT thì cho rằng, chính sách giảm phát thải chỉ thành công nếu tạo được động lực kinh tế đủ mạnh để nông dân tự nguyện tham gia.
“Chúng ta đừng đặt ra những mục tiêu xa rời thực tiễn. Nếu không giải bài toán kinh tế, mọi cam kết về giảm phát thải sẽ chỉ nằm trên giấy”, ông Phát nói.
Theo ông, giảm phát thải trong nông nghiệp là xu thế tất yếu trước áp lực từ biến đổi khí hậu và yêu cầu từ thị trường quốc tế, đặc biệt là các thị trường có tiêu chuẩn cao như châu Âu, Nhật Bản. Tuy nhiên, để thực thi hiệu quả, chính sách cần đi từ nhu cầu thực tế của người nông dân, nhất là về thu nhập và chi phí đầu tư.
Từ kinh nghiệm hàng chục năm công tác, nguyên Bộ trưởng khuyến nghị, không nên nghĩ rằng chỉ cần yêu cầu là người dân sẽ làm theo. Nếu muốn họ thay đổi tập quán canh tác, đề án phải chứng minh được cách làm mới giúp họ thu lời tốt hơn, rủi ro thấp hơn.
Cũng theo ông Phát, đề án cần tập trung vào những ngành hàng có dư địa giảm phát thải lớn, diện tích canh tác rộng, có chuỗi giá trị tương đối ổn định và có thị trường rõ ràng. Trong đó, lúa gạo là ví dụ điển hình, bởi đây được xem là ngành hàng đang phát thải cao, nhưng đồng thời cũng là nơi dễ can thiệp kỹ thuật và dễ đo lường kết quả. Đề án có thể lấy lúa làm cây trồng trung tâm, làm thật tốt rồi mở rộng ra.
Ngoài ra, ông cho rằng cần ưu tiên các vùng có điều kiện thuận lợi để tạo ra các mô hình mẫu, sau đó truyền thông lan tỏa. Không nên dàn trải lực lượng mà phải chọn điểm đột phá, tạo hiệu ứng lan tỏa theo chiều sâu.
Thừa nhận những lợi ích của canh tác giảm phát thải, nhưng nguyên Bộ trưởng cũng đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, đề xuất các cơ chế tài chính hỗ trợ nông dân. Ông nhận định, nếu không có tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ đầu vào phù hợp, nông dân sẽ khó thay đổi, bởi canh tác phát thải thấp thường đòi hỏi đầu tư ban đầu cao hơn và thời gian hoàn vốn dài hơn.
“Chúng ta nói đến đo đếm, báo cáo phát thải, dán nhãn... nhưng người nông dân không biết làm sao để tiếp cận vốn, ai hỗ trợ họ thực hiện kỹ thuật mới thì rất khó thành công”, ông phân tích.
Bên cạnh đó, ông cũng cảnh báo không nên đặt ra quá nhiều yêu cầu hành chính hoặc thủ tục kỹ thuật phức tạp khiến người dân nản lòng. Phải đơn giản hóa, làm sao để người dân thấy dễ hiểu, dễ làm, dễ thấy hiệu quả thì mới lan tỏa được.
Tổng kết lại, ông Cao Đức Phát nhấn mạnh rằng việc sản xuất phát thải thấp không thể là gánh nặng, mà cần trở thành giải pháp nâng cao giá trị nông sản, giúp nông dân tăng thu nhập.
“Chúng ta cần cho người dân thấy rằng, làm tốt phát thải thấp hôm nay là để có đầu ra tốt hơn, thị trường rộng hơn, giá trị cao hơn ngày mai. Nếu không có bài toán kinh tế rõ ràng thì rất khó để duy trì lâu dài”, ông kết luận.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng Lương Thị Kiểm phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Bảo Thắng.
Đề xuất cơ chế riêng cho sản xuất giảm phát thải
Bà Lương Thị Kiểm - Phó Giám đốc Sở NN-MT Hải Phòng cho biết, toàn thành phố hiện có diện tích đất sản xuất nông nghiệp thuộc nhóm lớn nhất khu vực phía Bắc sau sáp nhập hành chính. Dù tốc độ đô thị hóa nhanh, khoảng 40% dân số nông thôn vẫn sống phụ thuộc vào nông nghiệp. Trong vòng 10-20 năm tới, nông nghiệp tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố.
“Hải Phòng đã triển khai nhiều giải pháp giảm phát thải, trong đó nổi bật là mô hình chuyển đổi đất 2 vụ lúa sang 1 vụ lúa, 1 vụ cây vụ đông. Bên cạnh đó, việc phủ rơm rạ cho cây trồng vụ đông cũng giúp giữ ẩm và giảm phát thải khí nhà kính”, bà Kiểm chia sẻ.
Đặc biệt, thành phố đang mở rộng quy mô tưới ngập khô xen kẽ, một biện pháp giảm phát thải hiệu quả trong canh tác lúa. Nếu như trước đây chỉ áp dụng trên khoảng 1.000 ha/vụ, năm nay Hải Phòng đặt mục tiêu tăng lên 4.000-5.000 ha. Theo đánh giá thực nghiệm, vụ xuân, nhờ thời tiết lạnh, dễ áp dụng hơn nhưng mức giảm phát thải chỉ khoảng 4 tấn CO2/ha. Trong khi đó, vụ mùa khó hơn về kỹ thuật nhưng giúp giảm tới 6-7 tấn CO2/ha.
Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn gặp rào cản. Bà Kiểm cho biết, người dân đang được miễn phí thủy lợi phí nên khi rút nước khỏi ruộng là phản ứng ngay. “Họ chưa nhìn thấy ngay lợi ích lâu dài của tưới ngập khô xen kẽ”, bà Kiểm thẳng thắn nêu. Do đó, bên cạnh hỗ trợ kỹ thuật, Hải Phòng kỳ vọng sẽ có cơ chế đào tạo nâng cao nhận thức người dân, đặc biệt là khi thị trường carbon chính thức đi vào hoạt động.
Từ phía Nam, bà Đinh Thị Phương Khanh, Phó Giám đốc Sở NN-MT Tây Ninh đề nghị, đề án cần mở rộng tầm nhìn đến năm 2050 để phù hợp với cam kết Net Zero của Chính phủ.
“Việc đặt mục tiêu 15 mô hình giảm phát thải đến năm 2030 là phù hợp. Nhưng nếu kéo dài đến 2035, con số này cần tăng lên để tạo sức lan tỏa, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang chịu áp lực từ cam kết quốc tế”, bà Khanh nói.
Tây Ninh cũng đề xuất nên phân loại nhóm cây trồng trong đề án thành cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực… để xây dựng giải pháp tổng thể và phù hợp hơn trên phạm vi cả nước. Điều này sẽ giúp địa phương dễ dàng tiếp cận kỹ thuật và chọn lựa mô hình phù hợp với đặc điểm khí hậu, đất đai và cơ cấu kinh tế.
Một thách thức lớn khác mà Tây Ninh đối mặt là nguồn lực cán bộ sau khi thực hiện sáp nhập chính quyền hai cấp. Hiện nay, tại cấp xã chỉ còn 1-2 cán bộ phụ trách nông nghiệp, trong khi địa bàn rộng, nhu cầu hỗ trợ kỹ thuật cho người dân lớn. “Do đó, rất cần có chính sách riêng cho lực lượng khuyến nông, bao gồm cả khuyến nông cộng đồng để hỗ trợ triển khai đề án”, bà Khanh nhấn mạnh.

Ông Mai Văn Trịnh chia sẻ 4 phương pháp cơ bản để giảm phát thải khi canh tác lúa nước. Ảnh: Bảo Thắng.
Nền tảng giảm phát thải xuất phát từ kiểm kê chính xác
Nhấn mạnh rằng kiểm kê khí nhà kính là nền tảng bắt buộc nếu Việt Nam muốn thực hiện hiệu quả các mục tiêu giảm phát thải trong nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng, ông Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp chia sẻ: “Chúng ta không thể xây dựng chính sách hay định hình lộ trình giảm phát thải nếu không nắm chắc mình đang phát thải bao nhiêu, ở đâu, từ đâu ra”.
Một trong những nguồn phát thải lớn nhất trong trồng trọt là khí metan (CH4) từ canh tác lúa nước, theo ông Trịnh. Đây là loại khí có khả năng gây nóng lên toàn cầu gấp 28 lần so với CO2. Điểm lưu ý, là lượng CH4 phát thải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ tưới, loại đất, lượng hữu cơ bón vào và nhiệt độ môi trường.
“Khi tưới ngập liên tục, môi trường yếm khí khiến hữu cơ phân hủy mạnh, phát sinh khí CH4. Ngược lại, nếu áp dụng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ, lượng phát thải có thể giảm đáng kể”, ông phân tích.
Cụ thể, mô hình “2 lúa truyền thống” có thể phát thải tới 13 tấn CO2 /ha/năm, trong khi nếu áp dụng tưới ngập khô xen kẽ, mức này chỉ còn 7,15 tấn. Các mô hình canh tác khác như lúa - tôm (6,5 tấn CO2/ha/năm), trồng sen hay cây ăn trái (0,275 - 1,1 tấn CO2/ha/năm) có mức phát thải thấp hơn rõ rệt.
Ông Trịnh cho rằng, để kiểm kê chính xác, cần thu thập dữ liệu hoạt động chi tiết, bao gồm diện tích canh tác, loại cây trồng, chế độ tưới, loại phân bón, lượng vôi sử dụng và cách quản lý phụ phẩm. Ví dụ, nếu đốt rơm rạ ngoài đồng sẽ tạo ra phát thải khác với trường hợp dùng rơm làm phân compost hay sản xuất biochar.
“Chỉ số phát thải không cố định, mà thay đổi theo từng địa phương, mùa vụ, điều kiện canh tác. Vì vậy, hệ thống kiểm kê cần sát thực tiễn, cập nhật thường xuyên và có tính đến đặc thù từng vùng”, ông nói.
Chính vì vậy, ông Trịnh nhấn mạnh sự cần thiết phải liên kết chặt chẽ giữa hệ thống kiểm kê - cơ chế chính sách - yêu cầu thị trường. Theo ông, kiểm kê không chỉ để báo cáo mà phải phục vụ mục tiêu điều hành.
“Khi thị trường carbon chính thức vận hành, dữ liệu kiểm kê sẽ là căn cứ để đo đạc - báo cáo - thẩm tra (MRV). Nếu không có hệ số quốc gia tin cậy, không ai chấp nhận tín chỉ của chúng ta”, ông cảnh báo.
Kiểm kê còn giúp định hướng khoa học cho người dân. Khi biết mô hình nào phát thải thấp, mô hình nào tiết kiệm đầu vào, cơ quan chuyên môn mới khuyến nghị được đâu là cách làm có lợi nhất cho nông dân và môi trường.
Bên cạnh kiểm kê, cần đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ có hiệu quả giảm phát thải rõ rệt. Ví dụ điển hình là mô hình tuần hoàn rơm rạ, thay vì đốt bỏ ngoài đồng, rơm rạ được sử dụng để trồng nấm, sau đó ủ compost hoặc sản xuất biochar bón ngược lại cho cây trồng. Mô hình này không những giúp giảm phát thải mà còn cải tạo đất và tăng hiệu quả kinh tế.
“Mỗi tấn rơm được xử lý hợp lý là một bước tiến giảm phát thải. Cần có chính sách hỗ trợ để nông dân không còn lựa chọn đốt bỏ”, ông đề xuất.
Cục Biến đổi khí hậu nhận xét, yếu tố cốt lõi để kiểm soát và giảm phát thải hiệu quả là hoàn thiện hệ thống MRV. Đây là cơ chế bắt buộc theo Thỏa thuận Paris và là căn cứ để đánh giá tiến độ thực hiện NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định). MRV cũng sẽ là nền tảng để các cơ sở, địa phương tham gia thị trường carbon trong tương lai.
Đại diện Cục nhấn mạnh, đề án nên lựa chọn các biện pháp canh tác carbon thấp dựa trên hiệu quả giảm phát thải, đồng thời không làm ảnh hưởng đến năng suất hoặc thu nhập của nông dân. Ngoài ra, để đảm bảo tính bền vững, cần lồng ghép giảm phát thải với thích ứng biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn.