Ông Trần Đình Thiên, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trao đổi với báo giới xung quanh vấn đề này.
Từ trước đến nay hầu hết cán bộ công nhân viên chức chưa ai có thể sống được bằng đồng lương?
Những người làm việc trong bộ máy hành chính, lực lượng vũ trang, khối Đảng, đoàn thể, một số chức danh trong các hội nghề nghiệp và các đơn vị tổ chức kinh tế nhà nước hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các đơn vị thuộc Nhà nước chi trả. Khi lương họ quá thấp so với đòi hỏi của đời sống tức là ngân sách không đủ cáng đáng và các đơn vị không trả lương xứng đáng cho người lao động!
Chính sách tiền lương của Việt Nam phi lý đến không tưởng: lương cán bộ lãnh đạo đất nước không bằng lương một nhân viên trung bình của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Là một quốc gia đang ở diện nghèo mà lại có tỉ lệ người hưởng lương ngân sách cao hàng đầu khu vực và không một cán bộ công chức nào sống được bằng lương, nhưng đời sống thực tế của cán bộ công chức vẫn không ngừng được nâng cao.
Xét về lý thuyết thì nhân dân đóng thuế cho Nhà nước. Nhà nước dùng tiền đó thuê cán bộ công chức làm việc phục vụ dân. Vậy thì tại sao Nhà nước lại không đủ tiền trả lương cho cán bộ công chức?
Ngân sách phải được tính toán để phân phối cho mọi nhu cầu: an ninh, quốc phòng; cơ sở hạ tầng; an sinh xã hội... và một phần là lương cán bộ công chức.
Khi quĩ lương được chi trả thiếu khoa học (tức là phân phối không hợp lý về đối tượng và phương thức tính) thì nó sẽ bị dàn trải và không hoàn thành được chức năng, không phát huy được thế mạnh. Không những thế nó còn bị tác động xấu và sinh thiếu hụt.
Theo ông, cách chi trả và phương thức tính lương hiện hành gọi là gì?
Đó là: chúng ta xem tiền lương là một khoản chi ngân sách, gần giống như chi cho phúc lợi xã hội, hưu trí, y tế, giáo dục... Quan điểm này làm nảy sinh tư tưởng bình quân, cào bằng, ổn định và tiết kiệm.
Thực tiễn ở nhiều quốc gia thì tiền lương được xem là một khoản đầu tư xã hội. Quan điểm này khiến quĩ lương linh hoạt, minh bạch, rạch ròi và giống như mọi khoản tiền đầu tư khác, nó được đổ vào những khu vực, dự án hay con người có thể sinh lời và hiệu quả nhất.
Quan điểm lương là một khoản chi ngân sách đã được thể hiện trên thực tế ở nước ta như thế nào, thưa ông?
Về nguyên tắc, chỉ có khoản tiền trả cho người làm công mới được xem là lương. Tức là chỉ có cán bộ công chức đang làm việc mới có lương của Nhà nước trả. Thế nhưng hiện quĩ lương của chúng ta chia cho quá nhiều đối tượng: cán bộ công chức, hưu trí, thương binh liệt sĩ; hệ thống chính trị: Đảng, đoàn thể, một số hội nghề nghiệp...
Đúng ra các khoản hưu bổng, bảo trợ, an sinh xã hội... (tuy cũng thuộc ngân sách chi trả) phải tách khỏi lương và không được xem là khoản đầu tư. Còn thu nhập của các hiệp hội đoàn thể càng không được tính vào lương bởi vì đây là những tổ chức tự nguyện và độc lập (nếu có thể thì ngân sách chỉ hỗ trợ các tổ chức này dưới một hình thức nào đó, có thể qui định trong luật, nhưng nhất thiết phải tách rời lương).
Lương chỉ trả cho người làm công. Ai làm tốt thì lương cao, làm không tốt thì lương thấp, không làm thì không có. Như vậy đồng lương Nhà nước chỉ bỏ ra khi Nhà nước có thể nhận lại một sản phẩm có giá trị tương ứng hoặc hơn giá trị của đồng lương ấy.
Nhưng quan điểm “ngân sách” đã dùng lương để chi trả cho các đối tượng không làm ra của cải vật chất hay những giá trị xã hội tương tự. Biểu hiện thứ hai của “quan điểm ngân sách” là chúng ta đã trả lương theo vị trí công chức chứ không trả theo công việc.
Xin ông phân tích về biểu hiện này?
Ví dụ, tôi cần thuê thợ xây một căn nhà. Tôi phải đầu tư cho phần việc đó 100 triệu đồng. Tôi không cần biết có bao nhiêu thợ tham gia. Tất cả theo hợp đồng với những yêu cầu kinh tế, kỹ thuật, thời gian... thỏa thuận. Nếu họ có 20 người thực hiện phần việc đó thì lương mỗi thợ là 5 triệu đồng. Nếu là những người lành nghề và yêu công việc thì chỉ cần 10 người và lương của họ là 10 triệu đồng.
Quan điểm này gọi là trả lương theo công việc. Còn Nhà nước ta đang trả lương theo vị trí làm việc. Tức là cũng căn nhà ấy nhưng có đến 40-50 thợ, cơ bản là lười và tay nghề kém tham gia xây dựng. Ông chủ toán thợ buộc phải hạ lương xuống ở mức thấp nhất để đỡ thua lỗ. Hệ quả của hai cách làm trên là: một bên kích thích người làm việc ngày một hiệu quả hơn; một bên kích thích chỗ làm việc, tức là cứ vào được vị trí làm việc là có thu nhập.
Đã vậy, Nhà nước lại có chính sách biên chế suốt đời, tăng lương đều đều theo thâm niên và cất nhắc lên thì dễ nhưng hạ xuống thì khó dù hiệu quả công việc thấp. Kết quả là “thực khách” ngày một đông mà “miếng bánh” ngân sách thì có hạn nên ai cũng phải ăn miếng bé. Cán bộ công chức nào cũng cố kiếm chỗ ngồi ở vị trí cao để hưởng phụ cấp cao.
Đáng lý phụ cấp chỉ dành cho lực lượng yếu thế trong xã hội như thất nghiệp, tàn tật... thì ta lại dành cho người có thế mạnh trong xã hội. Chính sách lương kiểu này còn dẫn đến hàng loạt tác động xấu khác cho xã hội.
Những tác động xấu đó là gì?
Vấn đề mấu chốt của cải cách hành chính là tinh giản và nâng cao hiệu quả bộ máy. Thế nhưng vì trả lương theo vị trí khiến ai cũng cố gắng níu giữ vị trí của mình và họ không cần làm việc hiệu quả cũng vẫn được hưởng mức lương bằng người làm hiệu quả. Tiếp theo là khi lương quá thấp, mỗi cán bộ công chức tự tìm những kênh thu nhập ngoài lương để sinh tồn.
Nhà nước khi không đảm bảo được đời sống của công chức thì cũng không thể ràng buộc họ được. Thậm chí Nhà nước phải dần dần chấp nhận sự “không chung thủy” của mỗi cán bộ công chức. Ban đầu chỉ là “chân trong chân ngoài” như “Đầu đường đại tá bơm xe. Cuối đường thiếu tá bán chè đỗ đen”. Hay cán bộ nghiên cứu đi tìm dự án bên ngoài. Thầy cô giáo mở lớp dạy thêm. Bác sĩ mở phòng mạch tư... Lâu dần đến nhũng nhiễu, ép tiền hối lộ như thanh tra xây dựng ép phong bì, công an giao thông ăn tiền mãi lộ...
Còn khi trở thành quan chức thì góp phần đưa quốc gia lên danh sách tham nhũng hàng đầu thế giới... Lương quá thấp và sự chấp nhận các kênh thu nhập phi chính thức chính là một căn cơ quan trọng khiến tình trạng công chức Việt Nam quá dễ dàng sa ngã vào tham nhũng, sách nhiễu, quan liêu, cửa quyền, suy đồi đạo đức. Và lúc này thì Nhà nước không thể kiểm soát được thu nhập của cán bộ công chức. Chính sách thuế thu nhập cá nhân trở nên vô cùng khó có hiệu lực thực tiễn là vì vậy.
Theo ông, chúng ta cần cải cách tiền lương theo hướng nào?
Chúng ta chỉ cần tham khảo bài toán tiền lương mà thế giới đã giải quyết từ lâu. Đó là cần minh bạch các khoản phân phối xã hội, trong đó có lương. Lương phải đúng nghĩa là lương. Tức là tách bạch các khoản chi cho an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và hiệp hội, đoàn thể ra khỏi lương.
Tiếp theo là cần tìm cách trả lương theo công việc, theo con người chứ không phải theo vị trí. Khi đã có một phương pháp định dạng được mức lương theo công việc thì cắt bỏ tối đa các khoản thu nhập ngoài lương của cán bộ công chức như xe công, điện thoại, phụ cấp... Nếu trách nhiệm đó xứng đáng khoản thu nhập đó thì hãy qui ra lương. Rõ ràng và minh bạch. Lúc đó các phương pháp tính mức lương tối thiểu, hay hệ số, thang bảng lương thật ra chỉ là vấn đề kỹ thuật.
Ngành lao động – thương binh và xã hội tính rằng mức lương trung bình của cán bộ công chức hiện nay mới đáp ứng khoảng 60% nhu cầu đời sống, nhưng đã quá lớn với việc cân đối ngân sách. Vậy nếu tăng lương để công chức sống được thì lấy đâu ra kinh phí?
Nếu cải cách tiền lương theo hướng vừa nói thì không những ngân sách vẫn đủ sức chi trả mà còn không ngừng lớn. Bởi vì khi trả lương theo công việc, một việc trước đây có 10 người làm nay chỉ còn 3-4 người thì số người làm sẽ đương nhiên được tăng lương. Hiệu quả công việc sẽ rất tốt vì có sự đào thải.
Mặt khác, hãy lấy chính những khoản chi ngân sách nằm ngoài lương dành cho cán bộ công chức mà qui thành lương. Ví dụ, một thứ trưởng có mức lương 2,5 triệu đồng/tháng nhưng lại có một chiếc xe công trị giá 500 triệu và một anh lái xe (có mức lương và các khoản thu khác từ ngân sách khoảng 4 triệu nữa), một tài khoản điện thoại 2 triệu...
Cắt tất cả các khoản đó để chi cho ông thứ trưởng 20 triệu đồng/tháng. Ông ta muốn đi ôtô thì thuê, muốn gọi điện thì tự trả tiền. 20 triệu đồng chắc chắn giúp ông ta sẽ có cuộc sống tốt để cống hiến tâm sức phục vụ quốc gia.
Tại sao đến nay Việt Nam vẫn chưa thể thực hiện chính sách lương như thế?
Về kỹ thuật thì dễ nhưng khó nhất lại là về thay đổi tư duy. Dù khó nhưng đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi tư duy về chính sách tiền lương. Phải giải quyết tốt các tồn đọng lịch sử và tìm ra những phương pháp, xây dựng những lộ trình phù hợp (với thói quen sinh hoạt, văn hóa, phong tục...) để cải cách ít gây những biến động xã hội.
Còn những người có quyền lực cấp cao phải thấu hiểu được tiếng vọng khẩn thiết của cuộc sống trước những đồng lương đang trì níu sự phát triển, tấn công vào đạo đức công chức, đạo đức xã hội.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 1997 ở 3.000 đơn vị hành chính sự nghiệp trên cả nước: tỉ lệ của tiền lương trong tổng thu nhập của người lao động trong khu vực quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng chỉ chiếm 44,77%; trong lĩnh vực giáo dục đào tạo 53,52%; trong y tế 61,17%; trong khoa học công nghệ 30,85% (Nguồn: “Những hệ số cơ bản của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) năm 1997” – Nhà xuất bản Thống Kê, 7/1998). Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện cả nước có hơn 6 triệu người hưởng lương ngân sách. Trong đó có 1,5 triệu người là cán bộ công chức, 1,5 triệu người là đối tượng chính sách xã hội và cán bộ công nhân hưu trí, 300.000 người là cán bộ xã phường (đối tượng được hưởng lương, phụ cấp). Còn lại là các cán bộ thuộc hệ thống các tổ chức, hiệp hội đoàn thể, lực lượng vũ trang và cán bộ công nhân viên chức thuộc hệ thống các tổ chức kinh tế nhà nước. Từ 1/10, khi áp dụng mức lương mới (tăng lương tối thiểu lên 100.000 đồng và các loại trợ cấp hưu trí, xã hội), Nhà nước sẽ phải chuẩn bị 6.000 tỉ đồng để chi trả cho khoản tăng thêm của tiền lương tất cả các đối tượng trên trong ba tháng cuối năm 2006. Mức tăng thêm này của năm 2007 sẽ là 26.000 tỉ đồng (chiếm gần 10% tổng chi ngân sách). Theo các chuyên gia, thu nhập từ lương chỉ chiếm 30% cơ cấu thu nhập của công chức, tiền thưởng vá phụ cấp chiếm 10%; 60% còn lại là các khoản thu nhập thêm “ngoài luồng” (hợp pháp và bất hợp pháp). Nếu tính lương của chủ tịch tỉnh thành và bộ trưởng hiện nay là vào khoảng từ 3 - hơn 4 triệu đồng/tháng (khoảng 50 triệu đồng/năm), thì để có 2 tỉ đồng bỏ ra sửa chữa căn nhà công vụ được hóa giá của mình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy phải mất tới 40 năm làm việc và không chi tiêu. |