Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Thu hút FDI năm 2008: Nông nghiệp có đột phá?
25 | 01 | 2008
Mặc dù năm 2007, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào Việt Nam đạt mức kỷ lục cả về lượng và chất với những “siêu” dự án có tổng mức đầu tư hàng tỷ USD được cấp phép. Tuy nhiên, trong số đó chỉ có một phần rất ít dành cho nông nghiệp. Việc thiếu một chiến lược thu hút FDI dài hạn, hạ tầng yếu kém, kỹ năng lao động thấp, mức độ rủi ro cao... tiếp tục là những trở ngại lớn, ngăn cản các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với nông nghiệp Việt Nam

Đổi mới chưa đủ

Có mặt ở Việt Nam đã hơn 10 năm nay, ông Carlos Nascimento, Phó tổng giám đốc Công ty liên doanh phát triển Đình Vũ (KCN Đình Vũ - Hải Phòng) cho rằng, Việt Nam có nhiều lợi thế thu hút đầu tư như vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiến trình hội nhập nhanh chóng… Theo ông Carlos, việc quy hoạch vùng của Việt Nam rất tốt, chính sách “một cửa” và việc tạo điều kiện (có sẵn điện, đất cho NĐT) của Nhà nước đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho các KCN. “Cách đây ba năm, khi từ Hà Nội về Hải Phòng, tôi thấy rất nhiều cánh đồng lúa, nhưng đến giờ thì tất cả đã biến thành KCN. Điều này tạo sự cạnh tranh rất lớn giữa các KCN, nhưng như thế chưa hẳn đã tốt. Vấn đề ở chỗ, có quá nhiều KCN theo kiểu “trăm hoa đua nở”, nhưng nhiều nơi lại để cỏ dại mọc do hạ tầng không đáp ứng nhu cầu. Trong khi đó, có nhiều NĐT “khát” đất thì lại không được cấp”, ông Carlos nhận xét. Theo Ban quản lý xây dựng khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh, hiện có khoảng 40 NĐT tiềm năng chờ 132ha đất với tổng vốn dự kiến đăng ký trên 700 triệu USD; 7 NĐT cần 65.000m2 nhà xưởng xây dựng sẵn với vốn đầu tư dự kiến khoảng 113 triệu USD; 14 NĐT dịch vụ công nghệ cao đang có nhu cầu đầu tư vào khu công nghệ cao nhưng đến nay vẫn chưa tìm được nơi đặt trụ sở.

Tại Hội thảo Đầu tư trực tiếp nước ngoài – bước song hành của WTO mới được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, ông Kim Won Ho, Giám đốc Trung tâm xúc tiến Đầu tư và Thương mại Hàn Quốc (Kotra) cho rằng, tuy môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều, song vẫn chưa đủ và chưa thực sự hấp dẫn các NĐT lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn bởi còn nhiều yếu tố khiến các NĐT chưa thực sự thoải mái. Khảo sát mới đây của Kotra cho thấy, doanh nghiệp (DN) Hàn Quốc phải vượt qua rất nhiều rào cản, mà khó khăn, gian khổ nhất là thiếu thông tin (34,6%), sau đó mới là hạ tầng (25,4%), xuất - nhập khẩu nguyên liệu (19,4%), thủ tục hành chính (17,2%). Ông Kim cho hay, các DN Hàn Quốc khó nhận biết được đâu là thông tin đúng về Việt Nam, bởi luật pháp đôi khi được hiểu theo nhiều cách khác nhau.

“Đặc biệt, khuôn khổ pháp lý, thủ tục hành chính cần được cải thiện nhiều hơn nữa. Luật ban hành một đằng, nhưng thực hiện tại địa phương lại một nẻo”, ông Kim Won Ho chia sẻ. Cho đến giờ, vẫn có nhiều DN “nhập gia tuỳ tục” theo kiểu “chi phí quan hệ” với Việt Nam để được giải quyết thủ tục nhanh chóng hơn. Thêm nữa, chi phí đầu tư tại Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh, cả về tiền thuê đất, điện, viễn thông, nhất là ở các thành phố lớn. Hiện tại, tiền thuê đất tại các KCN gần Hà Nội tăng tới 60% so với đầu năm 2007, lên 42 - 45 USD/m2/năm. Nguồn nhân lực nước ta là một lợi thế không nhỏ với hơn 70% dân số dưới 30 tuổi, tuy nhiên, sự dồi dào đó lại không tỷ lệ thuận với trình độ bởi phần lớn lao động xuất thân từ nông dân. “Muốn có giám đốc hay quản lý là người Việt rất khó, vì thế Việt Nam cần đầu tư mạnh vào đào tạo nghề và các nhà quản lý. Mặt khác, chi phí lao động sắp trở thành gánh nặng do tăng lương. Nếu không có nhân lực chất lượng cao, ưu thế về lao động rẻ của các bạn sẽ mất đi rất nhiều”, ông Carlos cho hay.

Nông nghiệp bị bỏ ngỏ

Ông Hoàng Văn Huấn, Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư phía Bắc (Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết: “Từ năm 1988 đến nay, nước ta có trên 8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ còn hoạt động với tổng vốn đầu tư trên 83,1 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Riêng năm vừa qua, do đẩy nhanh tiến trình hội nhập nên dòng vốn FDI chảy vào nước ta đã đạt mức kỷ lục với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 18 tỷ USD (tính chung cả cấp mới và tăng vốn đạt 20,3 tỷ USD), trong đó, công nghiệp và xây dựng chiếm 60,1%, dịch vụ 34,4%, nông – lâm – ngư nghiệp chỉ có 5,4%”.

Trong bối cảnh nước ta đã gia nhập WTO, tăng cường thu hút FDI rất cần thiết cho mục tiêu tạo dựng nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, hiệu quả cao trên cơ sở áp dụng công nghệ tiên tiến để làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Điều này ai cũng thấy được, tuy nhiên đến nay nước ta vẫn chưa tạo dựng được cơ chế, các điều kiện cần thiết thu hút vốn FDI vào nông nghiệp. Năm 2007, ngành nông nghiệp chỉ có vẻn vẹn 40 dự án trong tổng số 1.445 dự án mới được cấp phép. Cả giai đoạn 1988 – 2007, nông nghiệp mới thu hút khoảng 933 dự án với tổng vốn 4,4 tỷ USD, đáng buồn hơn là trong số vốn ít ỏi đó, chỉ có khoảng 2 tỷ USD được giải ngân. Do luôn tiềm ẩn rủi ro từ nhiều phía (điều kiện tự nhiên, thị trường, lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng – vật nuôi...) nên có tới 30% số dự án bị giải thể so với mức bình quân chung của cả nước là 20%. Bên cạnh đó, vốn FDI vào nông nghiệp thấp và thiếu ổn định, chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Một số dự án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản không mang lại hiệu quả, trong khi đó lại có khá nhiều dự án tác động nghiêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên.

Lý giải về tỷ lệ FDI quá thấp trong ngành nông nghiệp, bà Phan Việt Nga, Tổng thư ký Hội các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam cho rằng, sự yếu kém trong hệ thống quản lý là nguyên nhân đầu tiên. Do chưa có chiến lược, cơ chế, đề xuất các dự án; chưa theo dõi sát sao để giúp đỡ, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI; năng lực sản xuất của lao động các địa phương còn thấp, tính rủi ro trong sản xuất cao; hạ tầng thiếu đồng bộ... dẫn đến tình trạng nông nghiệp bị bỏ ngỏ. Trong khi đó, đối với các NĐT nước ngoài, vấn đề chất lượng sản phẩm và thị trường lại là yếu tố tiên quyết để đưa ra quyết định đầu tư. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng, là chính sách chung chưa thực sự ưu đãi cho các NĐT vào lĩnh vực nông nghiệp. Vấn đề tích tụ ruộng đất để có vùng sản xuất lớn là yếu tố quyết định để thu hút FDI nhưng rất khó thực hiện. Tỷ lệ bảo hộ thực tế đối với nông sản quá thấp (dưới 3%) so với hàng công nghiệp (thậm chí lên tới trên 200%). Hệ thống bảo hiểm nông nghiệp hầu như không hoạt động khiến NĐT ngần ngại khi đổ tiền vào lĩnh vực vốn nhạy cảm và nhiều rủi ro này.

Làm thế nào để đột phá?

Theo ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, từ nay đến năm 2010, ngành nông nghiệp sẽ thu hút khoảng 1,5 tỷ USD vốn FDI. Nhưng xem ra điều đó khó trở thành hiện thực nếu chúng ta không sớm tìm ra những giải pháp kịp thời. Ông Carlos nhận định: “Miễn thuế, giảm thuế và những thuận lợi về chính sách trong các KCN hiện nay đang là ưu đãi không nhỏ của Chính phủ, song các bạn cũng cần tính tới bài toán đầu ra bằng cách kết nối xuất khẩu chặt chẽ và bền vững hơn, nhất là các mặt hàng nông sản đang có thế mạnh về cạnh tranh như thuỷ sản, cao su, càphê... Ngoài ra, vấn đề hạ tầng thiết yếu như đường, điện cũng cần được cải thiện tương xứng”. Còn ông Kyoshiro Ichikawa, chuyên gia tư vấn đầu tư cao cấp Nhật Bản thì khẳng định, để đạt được mục tiêu trên, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, cần xác định lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI. Từ thực tế giải quyết những vướng mắc về đất đai, nhiều chuyên gia cho rằng, hiện nay các NĐT mong muốn 3 vấn đề. Đó là được nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ tập thể, cá nhân; DN FDI được thuê đất của gia đình, cá nhân; mở rộng hơn quyền thế chấp và quyền sử dụng đất cho các đối tác có vốn FDI. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu cũng là việc cần phải làm ngay.

Giai đoạn 2006 - 2010, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của ngành nông nghiệp – phát triển nông thôn là 144.790 tỷ đồng, trong đó vốn FDI chiếm khoảng 11%. Để thực hiện mục tiêu này, ngành đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó sẽ lập hệ thống quản lý và xúc tiến FDI, bao gồm hình thành cơ chế, đề xuất, phê duyệt, tiêu chí xếp hạng ưu tiên các dự án; xác định mức độ phân cấp, phân quyền trong ngành về quản lý; tăng cường thông tin đối ngoại.

Trước việc tụt hậu trong thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, đã đến lúc Nhà nước cần tăng cường xúc tiến thương mại, đề ra các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp thông qua chính sách, biện pháp bảo hộ khả thi đối với nông - lâm sản và ngành nghề kinh tế ở nông thôn phù hợp với bối cảnh và lộ trình hội nhập.

Danh mục ưu đãi thu hút FDI cho nông nghiệp

Lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư: trồng và chăm sóc rừng, nuôi trồng cây - con trên đất hoang hóa, vùng chưa khai thác; đánh bắt hải sản xa bờ; nhân giống mới có hiệu quả kinh tế cao; sản xuất tinh chế muối.

Lĩnh vực ưu đãi: sản xuất thuốc phòng, trừ sâu bệnh cho cây trồng, vật nuôi; sản xuất máy, thiết bị, phụ tùng máy sản xuất, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, lương thực, thực phẩm; trồng cây dược liệu; bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản thực phẩm; sản xuất nước hoa quả đóng chai, hộp; tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản; dịch vụ kỹ thuật nông, lâm, thủy sản, xây dựng và phát triển ngành nghề truyền thống; sản xuất giấy, bìa, ván nhân tạo trực tiếp từ nguồn nguyên liệu trong nước.



Nguồn: KTNT
Báo cáo phân tích thị trường