Nhưng giá giảm khá mạnh, bình quân giá tiêu đen giảm 31%, còn 2.282 USD/tấn và tiêu trắng giảm 29%, còn 3.679 USD/tấn, thành ra giá trị xuất khẩu chỉ đạt 60 triệu USD. Với thị trường nội địa, giá hồ tiêu cũng chỉ dao động trên dưới 30.000 đồng/kg, chỉ bằng 50% so với lúc được giá. Giải thích nguyên nhân “hồ tiêu sụt gía“, các chuyên gia kinh tế cho rằng hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam bị thiệt hại hàng chục triệu USD mỗi năm vì không có thương hiệu chính thống.
Sản lượng lớn nhưng chưa ổn định
Hồ tiêu được trồng tại nhiều địa phương từ Quảng Trị đến Kiên Giang, nhưng có 6 tỉnh trọng điểm là Đồng Nai, Đắc Lắc, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Gia Lai và Đắc Nông. Các tỉnh nói trên duy trì thường xuyên một sản lượng hạt tiêu lớn và đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới.
Quá trình trồng, chế biến hạt tiêu đã quy tụ hàng trăm thương lái, đại lý và các doanh nghiệp (DN) thu mua cung cấp cho khoảng 100 DN chế biến, tạo ra sản phẩm sau thu hoạch và xuất khẩu. Chuỗi công việc với những công đoạn khác nhau liên quan đến hạt tiêu thương phẩm đã thu hút hàng trăm ngàn lao động, chủ yếu tại những địa phương kinh tế chưa phát triển, vùng xa, vùng sâu.
Điều này có ý nghĩa lớn trong tạo việc làm, thu nhập ổn định và từ đó bình ổn đời sống xã hội cũng như từng bước góp phần CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, hồ tiêu Việt Nam đã có mặt ở 73 nước trên thế giới. Sản lượng xuất khẩu chiếm khoảng 50% lượng hồ tiêu xuất khẩu toàn cầu, khẳng định vị trí số 1 trên thị trường quốc tế.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam trong một thời gian dài, hồ tiêu Việt Nam đến với thế giới bằng một cái tên khác. Nhưng hiện nay, tình hình đã được cải thiện, cụ thể là trong những năm gần đây, giá bán tiêu của Việt Nam đã ngang với giá các nước, thậm chí có thời điểm còn cao hơn. Có đến 50% lượng hạt tiêu xuất khẩu được bán trực tiếp cho các nhà máy chế biến gia vị tại nhiều nước. Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã và đang trở thành một mắt xích trong chuỗi phân phối toàn cầu, khả năng chi phối giá cả thị trường cũng được mở rộng.
Một dấu hiệu rất tích cực nữa là những nước sản xuất hồ tiêu lớn trong khu vực như Indonesia, Malaysia... đã đặt vấn đề hợp tác, phát triển, đảm bảo giá có lợi cho người trồng và các doanh nghiệp xuất khẩu tiêu. Biểu thuế Việt Nam cam kết với WTO ở mức 30% vào năm đầu tiên và đến năm 2010 giảm xuống 20%. So với biểu thuế hiện tại, 30% với ưu đãi, 40% với giao dịch bình thường và chỉ 5% VAT trong khuôn khổ AFTA thì mức thuế WTO không có ý nghĩa thay đổi. Gia nhập WTO, hồ tiêu Việt Nam thêm thuận lợi, con số bạn hàng của hồ tiêu Việt Nam không chỉ là 73 quốc gia, vùng lãnh thổ mà còn tăng nhanh.
Gia nhập WTO cũng làm tăng thêm khả năng cạnh tranh hồ tiêu Việt Nam trên thế giới vì giá thành sản xuất hồ tiêu của Việt Nam thấp nhất. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nên có những khuyến cáo cụ thể để người dân không tăng thêm diện tích mà tập trung nâng cao chất lượng, bền vững của những vườn hiện có.
Theo khuyến cáo của các nhà khoa học, muốn bền vững thì chỉ nên khai thác ở mức năng suất 2 kg/nọc, sản lượng chỉ nên duy trì 4 tấn/ha, nếu giá vững ở mức 25.000 đ/kg thì doanh thu vào khoảng 100 triệu/ha, so với một số loại cây trồng khác thì hồ tiêu còn thấp xa nhưng vẫn là đối thủ nặng ký trong làng cây trồng Việt Nam, rất thích hợp cho những hộ gia đình chỉ có ít đất.
Theo thống kê của các tỉnh, diện tích trồng tiêu của Việt Nam hiện có khoảng 55.000 ha, tập trung nhiều ở Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Sản lượng xuất khẩu mỗi năm trong khoảng 100.000 – 120.000 tấn chiếm trên 50% sản lượng hồ tiêu giao dịch buôn bán trên toàn thế giới. Mặc dù có con số ấn tượng như vậy nhưng trên tổng thể, tiêu vẫn là cây thiếu bền vững, sự thiếu bền vững đó không chỉ là qui mô quốc gia mà qui mô toàn thế giới.
Chúng ta từng chứng kiến giá tiêu lên đến 100.000 đ/ kg vào 1997 và giảm xuống 16.000 đ/ kg vào những năm sau đó. Sự thiếu bền vững không chỉ thể hiện ở sự bấp bênh về giá cả mà còn do cây hồ tiêu dễ mắc bệnh nấm Phytopthora làm chết hàng loạt. Ngoài ra, sự kém bền vững của hồ tiêu Việt Nam còn do chính các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tiêu tạo nên vì không đoàn kết họp tác chặt chẽ với người trồng để tạo dựng thương hiệu riêng cho mình… nên đầu ra sản phẩm dễ bị ép giá.
Vì thiếu thương hiệu
Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, song hiện nay, ngành hồ tiêu Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều vướng mắc đó là sản xuất hồ tiêu còn theo hướng nhỏ lẻ, chưa có quy mô, việc tìm kiếm và phát triển thị trường tiêu thụ còn thiếu tính chủ động, do đó dẫn đến giá cả không ổn định. Điển hình là trong năm 2008, giá thị trường cung ứng hạt tiêu đen liên tục biến động từ 73.500 đồng/kg trong những tháng đầu năm giảm dần còn 54.500 đồng/kg vào nửa năm và xuống còn 30.000 đồng/kg vào cuối năm. Và sang các tháng đầu năm 2009 này giá đã giảm xuống trên dưới 30.000 đ/kg.
Theo các chuyên gia, tiềm năng của hồ tiêu Việt Nam là rất lớn, cơ hội cho hồ tiêu rất rộng mở, tuy nhiên, theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam cho biết: hiện các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa biết làm ăn theo đúng luật kinh doanh, nghĩa là bán cái khách hàng cần chứ không phải cái chúng ta có. Đây cũng là nguyên nhân khiến thương hiệu hồ tiêu Việt Nam vẫn mờ nhạt trên thị trường quốc tế. Một số nơi, người trồng vẫn mang tính nhỏ lẻ, việc đầu tư về giống, kỹ thuật... chưa được chú trọng, tình trạng “trồng - chặt, chặt - trồng” làm ảnh hưởng tới chất lượng và sản lượng.
Bên cạnh đó, dù hồ tiêu Việt Nam đã có vị thế trên thị trường quốc tế nhưng trong 6 tỉnh trọng điểm sản xuất (Phú Quốc và các tỉnh Tây nguyên), chúng ta mới chỉ xây dựng được thương hiệu hồ tiêu Chư Sê. Hiện nay giá xuất khẩu hồ tiêu có thương hiệu luôn cao hơn từ 15%-20% so với hồ tiêu xuất khẩu loại 1, đây là vấn đề để các doanh nghiệp xuất khẩu cần xem lại.
Ông Nguyễn Dũng- Chủ tịch UBND huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai đã chứng minh về thế mạnh của thương hiệu: với sự kết hợp chặt chẽ giữa bà con nông dân, nhà khoa học và chính quyền đã đem lại hình ảnh mới cho người dân Chư Sê. Nông dân trồng tiêu đạt năng suất trên 10 tấn/ha, cá biệt có hộ đạt trên 17 tấn, trở thành kiện tướng số 1 về trồng hồ tiêu.
Bên cạnh đó, khi thương hiệu đã có và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngay lập tức các doanh nghiệp chế biến tiêu từ các tỉnh, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài cũng tìm đến Chư Sê để ký hợp đồng mua tiêu nguyên liệu. Ông Dũng còn cho biết: mới đây nhất là tổ chức Olam đã đặt chi nhánh tại Chư Sê và sắp tới doanh nghiệp Đức sẽ đến đầu tư khu chế biến tiêu sạch, tiêu hữu cơ xuất khẩu...
Đây cũng là cơ hội lớn cho người trồng tiêu nhưng cũng là điều đáng lo cho các doanh nghiệp trong nước. Vì sau 2 năm gia nhập WTO, đã có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến tham gia trực tiếp ký họp đồng thu mua sản phẩm với bà con nông dân. Thông qua việc hỗ trợ cấp chứng chỉ về chất lượng sản phẩm, họ đã thiết lập được mối liên hệ mật thiết với bà con nông dân và tạo được nguồn nguyên liệu ổn định.
Ngoài ra, do có nguồn vốn dồi dào đến lúc nào đó,các doanh nghiệp nước ngoài sẽ là người quyết định giá mua sản phẩm của nông dân, từng bước làm cho doanh nghiêp trong nước mất dần lợi thế. Vì vậy, để ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung cũng như ngành hồ tiêu nói riêng muốn phát triển bền vững thì các doanh nghiệp trong nước phải xây dựng được chiến lược làm sao gắn bó được với nông dân nhằm tạo vùng nguyên ổn định.
Phân tích vấn đề này, ông Nam nhìn nhận rằng : để xây được thương hiệu thì các doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi cách làm ăn, từ đó thay đổi tập quán sản xuất của bà con thì Hiệp Hội cũng cần phải trang bị kiến thức, nâng cao năng lực hội nhập cho cán bộ và nông dân các vùng chuyên canh hồ tiêu để họ hiểu rõ vận hội, nắm bắt thời cơ, hạn chế rủi ro... Mặt khác, Hiệp hội còn phải tăng cường hơn nữa vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính, các hộ nông dân sản xuất và kinh doanh hồ tiêu... nhằm xây dựng cho được thương hiệu cho hồ tiêu Việt Nam, hình ảnh uy tín Việt Nam trên thị trường thế giới.
Để ngành hồ tiêu phát triển bền vững, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề ra mục tiêu: Giữ ổn định diện tích hồ tiêu ở mức 50.00ha, sản lượng 100.000 tấn/năm, các địa phương phải hướng dẫn người trồng thực hiện quy trình của tiêu chuẩn GAP để tạo ra sản phẩm sạch, an toàn, làm cho giá trị hàng hoá ngày càng gia tăng, xây dựng những vùng nguyên liệu tập trung. Chuyển từ sản xuất tiểu nông với kinh nghiệm truyền thống sang sản xuất theo hướng an toàn, chất lượng cao, tổ chức các câu lạc bộ, tổ hợp sản xuất... giúp nhau cùng phát triển.
Cùng với việc phổ biến thông tin thị trường để nông dân và doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, kinh doanh., việc cần làm ngay là tăng cường công tác xúc tiến thương mại, giao lưu hợp tác quốc tế, góp phần xây dựng được thương hiệu chính thống cho hồ tiêu Việt Nam.