1. Đánh giá hiện trạng về lâm nghiệp
Lâm nghiệp là các hoạt động của con người có sử dụng lao động, tiền vốn, các phương tiện, công cụ và các tiến bộ kỹ thuật để tác động vào rừng và đất lâm nghiệp nhằm quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dụng tài nguyên rừng. Đánh giá hiện trạng hoạt động lâm nghiệp là đánh giá những tác động của con người vào rừng và đất lâm nghiệp để làm thay đổi về tình hình rừng.
1.1 Về tài nguyên rừng
Trong một thời gian khá dài, diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam liên tục giảm, giai đoạn từ năm 1943 đến năm 1995 bình quân 1 năm giảm 0,79% diện tích rừng tự nhiên. Tỷ lệ giảm diện tích rừng tự nhiên lớn nhất là giai đoạn từ năm 1980-1985 (bình quân một năm là 2,2%). Giai đoạn 1990 đến 1995 tỷ lệ mất rừng chỉ còn 0,42%/năm. Từ năm 1995 đến nay, diện tích rừng tự nhiên được phục hồi và tăng 3,15%, Đối với rừng trồng thì từ năm 1976 đến 1999 diện tích trồng rừng hàng năm được tăng lên liên tục, bình quân mỗi năm tăng khoảng 7,85%, tỷ lệ tăng diện tích rừng trồng cao nhất là giai đoạn 1985-1999: 10,02%/năm.
Với tổng diện tích rừng hiện nay thì bình quân mới có 0,14 ha/người, xếp vào loại thấp của thế giới (0,97 ha/người). Trữ lượng gỗ bình quân 9,8 m3 gỗ/người, trong khi đó chỉ tiêu này của thế giới là 75 m3gỗ/người. Các loài thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm bị mất đi, chức năng phòng hộ và cung cấp của rừng giảm sút rõ rệt.
1.2 Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp
Hiện nay ngành Lâm nghiệp đang chỉ đạo xây dựng 3 loại rừng thành một hệ thống thống nhất của cả nước.
Hệ thống rừng đặc dụng đến nay đã xây dựng được 94 khu với diện tích đất có rừng là 1,55 triệu ha chiếm 13,9% diện tích có rừng trong cả nước, trong đó có 12 vườn quốc gia, 64 khu bảo tồn thiên nhiên, 18 khu văn hoá, lịch sử và môi trường. Rừng đặc dụng được tổ chức theo hình thức các Ban quản lý và được đầu tư từ ngân sách.
Hệ thống rừng phòng hộ đến nay đã quy hoạch được 6,0 triệu ha rừng phòng hộ, trong đó rừng phòng hộ đầu nguồn chiếm 5,6 triệu ha, còn lại 0,4 triệu ha là phòng hộ chống cát bay, chắn sóng biển và phòng hộ môi trường. Rừng phòng hộ được tổ chức theo hình thức các Ban quản lý và được đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Hệ thống rừng sản xuất diện tích rừng sản xuất hiện có 4,04 triệu ha (trong đó rừng tự nhiên là 3,17 triệu ha, rừng trồng là 0,87 triệu ha). Rừng sản xuất được giao cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để sản xuất kinh doanh. Nhà nước có chính sách cho vay vốn ưu đãi và hỗ trợ tạo nguồn nhân lực, hướng dẫn ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và các thông tin về thị trường….
1.3 Các hoạt động về quản lý, bảo vệ, xây dựng và lợi dụng rừng
Về quản lý: Cùng với việc tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp cho các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã, Nhà nước còn đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương xã hội hoá nghề rừng bằng biện pháp giao đất cho thuê đất để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp và khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh đối với rừng nghèo kiệt. Đã tiến hành giao rừng cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình vào khoảng 8,0 triệu ha chiếm 73,3% diện tích đất có rừng (doanh nghiệp nhà nước 3,6 triệu ha, các ban quản lý 2,1 triệu ha, các tổ chức khác và cá nhân 0,2 triệu ha).
Về đầu tư: Từ năm 1993 đến 1998, Nhà nước triển khai thực hiện chương trình 327, lấy hộ gia đình làm đối tượng đầu tư. Kết thúc chương trình này đã giao được 1,6 triệu ha đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân quản lý, bảo vệ; đã phục hồi được 1.368.600 ha rừng (trong đó có 748.100 ha rừng tự nhiên nghèo kiệt và trồng mới 638.500 ha rừng); trồng cây công nghiệp và cây ăn quả được 119.940 ha; tăng đàn gia súc lên được 53.025 con; thực hiện kế hoạch di dân được 92.420, xây dựng được 5.000 km đường liên thôn, liên xã, huyện, 86.400m2 trường học, bệnh viện, khai hoang được 24.900 ha đất.
Từ năm 1998 đến năm 2010 được tiếp tục bằng Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, trong đó có 2 triệu ha là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và 3,0 triệu ha rừng sản xuất. Từ năm 1999-2003 trồng mới được 1.014.223 ha (trong đó rừng phòng hộ và đặc dụng 497.594 ha, rừng sản xuất 516.629 ha) và tạo rừng phòng hộ và rừng đặc dụng bằng biện pháp khoanh nuôi được 699.000 ha.
Về khai thác: Thực hiện chủ trương giảm dần sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên hàng năm, tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên và tăng khai thác từ rừng trồng. Đồng thời tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp để phát triển rừng và sử dụng rừng một cách hợp lý nhất.n Về công nghiệp chế biến bước đầu đã hình thành một mạng lưới hợp lý trên toàn quốc, kinh doanh đa ngành, đa nghề với nhiều thành phân kinh tế tham gia kể cả vốn đầu tư nước ngoài, đến nay toàn quốc có 1.200 doanh nghiệp trong đó có 124 doanh nghiệp nhà nươc do Trung ương quản lý chiếm 10,3%, 252 doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý chếim 20,8%, 40 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,3%, 786 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chiếm 65,6%. Cơ cấu sản phẩm như sau: Gỗ xẻ 14%, đồ mộc xây dựng, mộc dân dụng, tàu thuyền, giao thông vận tải 60%, mộc mỹ nghệ 13%, sản xuất ván nhân tạo 8,4%, song, mây, tre, trúc 4,2%. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến năm 1996 đạt giá trị xuất khẩu 212,2 triệu USD, năm 2000 ước tính đạt 288,2 triệu USD. Khối lượng lâm sản lưu thông ở thị trường trong nước hiện nay vào khoảng từ 2,2 triệu đến 2,5 triệu m3. Trong đó gỗ rừng tự nhiên từ 400.000-500.000m3, gỗ nhập khẩu từ 300 ngàn - 400 ngàn m3, gỗ rừng trồng từ 1,5 triệu đến 1,6 triệu m3.
1.4 Các cơ chế chính sách
Chính phủ đang từng bước xây dựng, điều chỉnh và bổ sung một số chính sách để phù hợp với thông lệ quốc tế và những cam kết của Việt Nam để tham gia ký kết, nhằm đáp ứng các mục tiêu là quản lý, bảo vệ và phát triển được vốn rừng tự nhiên hiện có, bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen quý hiếm, bảo tồn các loài đặc hữu, bảo vệ nguồn nước và đảm bảo an ninh môi trường và khai thác hợp lý nguồn lợi từ rừng.
2. Một số dự báo
2.1 Về môi trường
Việt nam cũng thực hiện xu hướng về môi trường toàn cầu là sử dụng và đánh giá cao vai trò, chức năng của rừng trong việc khôi phục môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai về thay đổi khí hậu, sa mạc hoá, tăng nồng độ CO2 trong không khí, bảo vệ nguồn nước và cải tạo đất….
Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa với tốc độ ngày càng cao nên có tác động rất lớn đến nhu cầu đảm bảo an ninh môi trường, phát triển bền vững của đất nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện hệ thống thủy lợi, thủy điện nên đòi hỏi cấp bách về rừng để bảo vệ, điều tiết nguồn nước một cách bền vững.
Nhiều năm qua thiên tai (lũ lụt, hạn hán) liên tiếp xảy ra ở diện rộng và mức độ ngày càng gia tăng, Chính phủ đang thực hiện nhiều giải pháp để khống chế thiên tai nhằm giảm thiệt hại về người và của đến mức thấp nhất.
2.2 Về bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học của rừng
Do mất rừng tự nhiên nên môi trường sống của nhiều loại động vật, thực vật rừng bị thu hẹp, nhiều loại sinh vật rừng bị mất đi hoặc đang có nguy cơ bị tuyệt chủng, tính đa dạng sinh học đang bị suy giảm nhanh chóng.
2.3 Nhu cầu sử dụng lâm sản
Dự tính nhu cầu sử dụng gỗ, lâm sản vào năm 2010 như sau:
Nhu cầu | Đơn vị tính | Số lượng |
Gỗ trụ mỏ | 1.000m3 | 350 |
Nguyên liệu giấy | 1.000m3 | 18.500 |
NL ván nhân tạo | 1.000 m3 | 3.500 |
Gỗ XDCB và gia dụng | 1.000m3 | 3.500 |
Củi | 1.000 Ster | 10.500 |
Song mây, tre nứa | 1.000 tấn | 300-350 |
Nhựa thông | 1.000 tấn | 40 |
Hoa hồi | 1.000 tấn | 30 |
Gỗ nhập khẩu | 1.000m3 | 500 |
3. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển lâm nghiệp quốc gia
3.1 Quan điểm
Phát triển lâm nghiệp phải gắn liền với việc bảo vệ và phát triển bền vững của đất nước, phát triển lâm nghiệp một cách toàn diện, có hệ thống trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đa dạng của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển lâm nghiệp trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Gắn công nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu, nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng và nghề rừng, trên cơ sở kinh doanh rừng bền vững.
Phát triển lâm nghiệp gắn với việc xoá đói, giảm nghèo, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo tồn, phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc, không ngừng nâng cao vai trò nguồn lực con người.
3.2 Mục tiêu phát triển lâm nghiệp đến 2010
Bảo vệ bằng được 10,9 triệu ha rừng hiện có, khắc phục tình trạng suy thoái của rừng để tăng độ che phủ của rừng lên 43%.
Đầu tư phát triển 3 loại rừng, phấn đấu đến năm 2010 đạt giá trị 2,5 tỷ USD hàng lâm sản xuất khẩu.
Đến năm 2010 có 6,0-8,0 triệu lao động tham gia sản xuất lâm nghiệp.
3.3 Định hướng phát triển lâm nghiệp đến năm 2010
Xây dựng vốn rừng với diện tích 16 triệu ha, chiếm 48,3% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc, trong đó có 6 triệu ha rừng phòng hộ, 2 triệu ha rừng đặc dụng và 8 triệu ha rừng sản xuất. Phát triển lâm nghiệp trên 7 vùng sinh thái: Vùng núi và Trung du phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Đến năm 2010 sản lượng gỗ sẽ là 24,5 triệu m3 (trong đó gỗ rừng tự nhiên 0,3 triệu m3), 0,35 triệu tấn song, mây, tre nứa, 0,6 triệu tấn đặc sản khác.
Để đạt mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, định hướng của chiến lược tập trung vào các vấn đề sau:
- Hình thành vùng nguyên liệu tập trung và nâng cao kỹ thuật canh tác.
- Lựa chọn hướng phát triển công nghiệp chế biến phù hợp với từng vùng, từng loại hình nguyên liệu lâm sản và quản lý theo tiêu chuẩn ISO.
- Thực hiện liên kết giữa các hộ gia đình, các trang trại với các chủ doanh nghiệp, các nhà khoa học và các cấp chính quyền ở địa phương.
- Kết hợp hài hoà giữa chế biến quy mô lớn, tập trung với chế biến thủ công với sơ chế của cơ sở chế biến vừa và nhỏ và của hộ gia đình.
3.4 Các chương trình, dự án ưu tiên phát triển lâm nghiệp
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng: là dự án quốc gia, nhằm nâng độ che phủ rừng toàn quốc lên 43%.
Chương trình phát triển và quản lý rừng bền vững với việc xây dựng ổn định 6,0 triệu ha rừng phòng hộ và 2,0 triệu ha rừng đặc dụng.
Chương trình chế biến gỗ và lâm sản nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm từ rừng, chuyển hướng sử dụng nguyên liệu từ rừng tự nhiên sang nguyên liệu khai thác từ rừng trồng.
Chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý, cán bộ kỹ tuật, đội ngũ công nhân, các chủ rừng, có năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển lâm nghiệp.
Chương trình phát triển giống câu trồng lâm nghiệp nhằm đảm bảo đủ giống câu lâm nghiệp chủ lực có chất lượng tốt cho trồng rừng kinh tế.
Chương trình điều tra, đánh giá, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng thực hiện trên quy mô tỉnh, vùng và toàn quốc. Phân tích đánh giá và xác định các nguyên nhân gây ra biến động, dự báo biến động tài nguyên rừng.
Chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật, đội ngũ công nhân, các chủ rừng có năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển lâm nghiệp.
CÔNG CỤ THỰC HIỆN ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP QUỐC GIA
Thuật ngữ "Công cụ" được dùng dưới đây để chỉ các hoạt động, các phương thức được sử dụng nhằm phát triển lâm nghiệp.
1. Quy hoạch các loại rừng
Quy hoạch các loại rừng được coi là công cụ đầu tiên của hệ thống các công cụ thực hiện định hướng phát triển lâm nghiệp.
1.1. Xây dựng quy hoạch tổng thể về lâm nghiệp. Xác định rõ lâm phận quốc gia trên thực địa để đảm bảo tính pháp lý và tính ổn định của lâm phận
Quy hoạch tổng thể về lâm nghiệp là công cụ đầu tiên để cụ thể hoá việc thực hiện định hướng phát triển lâm nghiệp. Nhưng do chưa có quy hoạch ổn định nên lâm phận quốc gia thường thay đổi, do vậy cần có quy hoạch tổng thể lâm phận quốc gia làm cơ sở cho việc phân loại rừng và có kế hoạch đầu tư phát triển rừng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là lâm phận quốc gia cần được xác định với diện tích bao nhiêu là hợp lý? Và phải được làm rõ ranh giới trên thực địa.
1.2. Phân chia lâm phận quốc gia thành 3 loại rừng: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất để làm cơ sở cho việc tổ chức quản lý rừng
Quy hoạch lâm phận quốc gia thành 3 loại rừng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác lập hệ thống quản lý rừng, các giải pháp kỹ thuật tác động thích hợp và làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách quản lý rừng phù hợp với từng loại rừng.
1.2.1. Về quy hoạch rừng đặc dụng
Đến năm 2010, toàn quốc sẽ có khoảng 2,0 triệu ha rừng đặc dụng; hệ thống rừng đặc dụng gồm: Vườn Quốc gia, Khu Rừng bảo tồn thiên nhiên, Khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường. Hệ thống rừng đặc dụng được sắp xếp theo hướng chọn lọc, tăng diện tích các khu rừng bảo tồn theo tiêu chuẩn quốc tế và giảm bớt số lượng khu rừng bảo tồn theo hướng gộp các khu liền kề làm một hoặc loại bỏ các khu rừng kém giá trị sinh học và chuyển những khu rừng đó sang chế độ quản lý rừng phòng hộ hoặc rừng sản xuất.
1.2.2. Về quy hoạch rừng phòng hộ
Đến năm 2010 có 6 triệu ha rừng phòng hộ: 5,6 triệu ha rừng phòng hộ đầu nguồn, 180.000 ha rừng phòng hộ ven biển, 150.000 ha rừng chống cát bay, 70.000 ha rừng phòng hộ cảnh quan môi trường song cần có tiêu chí xác định rừng phòng hộ và quy hoạch rừng phòng hộ trọng điểm để có hướng và giải pháp quản lý, đầu tư.
1.2.3. Đối với rừng sản xuất
Đến năm 2010 có 8 triệu ha rừng sản xuất (trong đó trồng mới 3 triệu ha rừng kinh tế, gồm 1,0 triệu ha rừng nguyên liệu giấy; 1,2 triệu cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, cây lấy gỗ, củi gia dụng; 0,4 triệu ha rừng nguyên liệu ván nhân tạo, 0,2 triệu ha rừng cây đặc sản). Trong quy hoạch phải gắn vùng nguyên liệu tập trung với các khu công nghiệp chế biến, trước hết là vùng cung cấp nguyên liệu giấy, ván công nghiệp, gỗ trụ mỏ và cây đặc sản. Xác định quy mô các cơ sở chế biến phù hợp với khả năng sản xuất nguyên liệu của từng vùng nhằm phát huy lợi thế của vùng kinh tế đó.
2. Hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ thống tổ chức quản lý về lâm nghiệp
Hệ thống quản lý về lâm nghiệp bao gồm hệ thống quản lý nhà nước về lâm nghiệp và hệ thống quản lý rừng và đất lâm nghiệp của các đơn vị cơ sở.
2.1. Hệ thống quản lý Nhà nước về lâm nghiệp
Hệ thống này được thiết lập trên cơ sở phân định rõ mối quan hệ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ để tránh sự chồng chéo và không rõ trách nhiệm về quản lý lâm nghiệp.
2.1.1. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về lâm nghiệp
Củng cố các Chi cục Lâm nghiệp và Chi cục Kiểm lâm; các huyện bổ sung cán bộ lâm nghiệp cho Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các xã có cán bộ lãnh đạo chuyên trách về nông, lâm nghiệp để giúp UBND làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
Ở các tỉnh có nhiều diện tích rừng và đất lâm nghiệp cần thành lập Chi cục Lâm nghiệp và bố trí đủ cán bộ theo tiêu chuẩn công chức. Ở những tỉnh không đủ điều kiện thành lập Chi cục Lâm nghiệp, cần có Phòng Lâm nghiệp hoặc tối thiểu phải có 1 kỹ sư lâm nghiệp để chuyên trách theo dõi về công tác lâm nghiệp. ở các xã có nhiều rừng và đất lâm nghiệp cần bố trí một cán bộ chuyên trách lâm nghiệp.
2.1.2. Phân định trách nhiệm cụ thể của mỗi cấp chính quyền trong việc thực hiện quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp
a. Về điều tra phân loại rừng, phân định ranh giới rừng, thống kê theo dõi diễn biến về rừng và đất lâm nghiệp
Định kỳ 5 năm Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm tổ chức điều tra, phúc tra rừng, xác định các loại rừng, thống kê rừng, lập bản đồ rừng và đất lâm nghiệp và công bố diễn biến tài nguyên rừng. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức điều tra phân loại rừng, thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. UBND cấp huyện và xã có trách nhiệm thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng của địa phương.
b. Về lập quy hoạch và kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp
Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức thực hiện việc lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi toàn quốc, trình Thủ tướng Chính phủ xét duyệt. UBND cấp huyện và xã tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương trình UBND cấp trên trực tiếp xét duyệt. Đối vớI quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh do UBND tỉnh phê duyệt sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nông nghiệp và PTNT và được HĐND thông qua. Kỳ của quy hoạch là 10 năm, kỳ của kế hoạch là 5 năm và được cụ thể ra từng năm
2.2. Hệ thống quản lý rừng và đất lâm nghiệp của các đơn vị cơ sở (còn gọi là chủ rừng)
2.2.1. Hệ thống quản lý rừng đặc dụng
Mỗi khu rừng đặc dụng có diện tích tập trung từ 1.000 ha trở lên được thành lập Ban quản lý rừng (trường hợp đặc biệt có thể nhỏ hơn 1.000 ha), hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp kinh tế. Biên chế ban quản lý khu rừng đặc dụng bình quân 1.000 ha được 1 biên chế, tối thiểu mỗi Ban quản lý được biên chế 5 người.[1] Ban quản lý rừng đặc dụng có nhiệm vụ tổ chức quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dụng khu rừng đặc dụng; khôi phục và bảo tồn nguyên vẹn các hệ sinh thái; bảo tồn tính đa dạng sinh học của khu rừng đặc dụng.
2.2.2. Hệ thống quản lý rừng phòng hộ
Khu rừng phòng hộ có diện tích tập trung từ 5.000 ha trở lên được thành lập Ban quản lý rừng. Biên chế ban quản lý rừng phòng hộ bình quân 1.000 ha rừng có một định suất biên chế, tối thiểu mỗi Ban quản lý được biên chế 7 người. Ban quản lý rừng có trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dụng rừng phòng hộ theo đúng các
quy định của pháp luật.
2.2.3. Hệ thống quản lý rừng sản xuất
2.2.3.1. Hệ thống các lâm trường quốc doanh
Trong những năm tới tiến hành sắp xếp lại lâm trường quốc doanh nhằm tạo ra động lực mới, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng; góp phần phát triển kinh tế - xã hộI vùng Trung du và miền núi. Căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh; mục đích sử dụng của từng loại rừng, vai trò của lâm trường trên địa bàn, để sắp xếp, phát triển các lâm trường theo hướng tách nhiệm vụ xã hội ra khỏi chức năng kinh doanh của lâm trường: Duy trì lâm trường có nhiều rừng sản xuất, có hướng sản xuất và kinh doanh có lãi; chuyển lâm trường quản lý nhiều rừng đặc dụng, rừng phòng hộ sang ban quản lý hoạt động theo đơn vị sự nghiệp; chuyển lâm trường quy mô nhỏ sang loại hình dịch vụ cho sản xuất lâm nghiệp và giải thể lâm trường làm ăn thua lỗ.
Trong quá trình sắp xếp lại lâm trường, cần nghiên cứu để hình thành các tập đoàn sản xuất (như liên hiệp vùng, liên hiệp cấp tỉnh) có khả năng tập hợp và điều tiết quá trình xây dựng rừng và phát triển sản xuất hoặc thành lập các tổng công ty với hình thức liên doanh giữa lâm trường và nhà máy để trồng rừng nguyên liệu và chế biến lâm sản.[2]
2.2.3.2. Hỗ trợ, giúp đỡ để phát triển kinh tế hộ nông dân thật sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ
Đến năm 2000 Nhà nước đã giao khoảng 1,97 triệu ha đất có rừng và 1,1 triệu ha đất đồi núi chưa sử dụng cho khoảng gần 1 triệu hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Bình quân 3 ha/một hộ. Có khoảng 46.000 hộ nhận khoán quản lý rừng từ các lâm trường quốc doanh và các ban quản lý rừng với tổng diện tích 1,86 triệu ha, chiếm hơn 10% trong tổng diện tích đất lâm nghiệp, bình quân 4ha/hộ. Trong thời gian tớI ngoài việc giao và khoán rừng cho các hộ gia đình, cá nhân vấn đề đặt ra là phải có chính sách hỗ trợ, khuyến khích để họ mở rộng sản xuất, phát triển trang trại rừng.
3. Đẩy mạnh giao đất, giao rừng
Đến năm 2002, Nhà nước đã giao khoảng 8,0 triệu ha, chiếm 73,3% tổng diện tích đất có rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, hiện còn gần 3 triệu ha rừng, chiếm 27,4% tổng diện tích đất có rừng vẫn do cấp huyện, cấp xã quản lý thông qua lực lượng kiểm lâm. Trong những năm tới cần tập trung để hoàn thành việc giao đất giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để tất cả diện tích rừng của cả 3 loại rừng đều có chủ.
4. Khoa học, công nghệ và khuyến lâm
4.1. Khoa học và công nghệ
4.1.1. Về giống cây trồng
- Xác định lại cơ cấu cây trồng cho từng vùng và cụ thể hóa loài cây trồng chính cho từng điều kiện lập địa đến tận huyện, xã. Đổi mới tập đoàn cây trồng trong lâm nghiệp bao gồm cả cho rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất. Xác lập tập đoàn giống có chất lượng cao cho từng vùng sinh thái,cần ưu tiên chọn các loài cây mọc nhanh, đa tác dụng vừa cho sản phẩm được thị trường chấp nhận, vừa có tác dụng phòng hộ, vừa cho gỗ vừa cho các sản phẩm khác, không phân biệt đó là loài cây bản địa hay nhập nội.
- Tiếp tục đầu tư cho công tác nghiên cứu, ứng dụng để chọn tuyển các loài cây có năng suất cao để trồng rừng nguyên liệu cũng như nghiên cứu hệ thống các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tiên tiến, tiến tới hoàn thiện quy trình trồng rừng cao sản bằng cây con mô hom.
- Xây dựng các khu rừng giống và cơ sở sản xuất cây giống có chất lượng cao cho một số vùng trọng điểm như: vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Bắc Trung Bộ. Tổ chức tốt các dịch vụ về giống, chuyển giao tiến bộ về giống, đưa giống mới đến người sử dụng.
- Xây dựng quy chế quản lý giống cây trồng lâm nghiệp; hệ thống hoá các quy trình quy phạm kỹ thuật trồng rừng cho các loài cây bản địa phổ biến. Đảm bảo hạt giống đưa ra trồng rừng phải được cấp chứng chỉ kiểm nghiệm. Tăng cường chức năng quản lý Nhà nước về giống cây rừng, thực hiện cấp chứng chỉ hạt giống.
4.1.2. Nghiên cứu phục hồi rừng tự nhiên
Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp lâm sinh phù hợp để nâng cao chất lượng rừng tự nhiên đặc biệt là các giải pháp phục hồi rừng tự nhiên trên đất nương rẫy không sử dụng, ở rừng đã khai thác cạn kiệt nhằm phục hồi cảnh quan, nâng cao khả năng phòng hộ và cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ, coi trọng việc đầu tư cho bảo vệ, khoanh nuôi và súc tiến tái sinh tự nhiên.
4.1.3. Phát triển kỹ thuật tiến tiến, làng nghề truyền thống để chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ
Phát triển chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ trên cơ sở lấy thị trường làm mục tiêu. Hiện tại chất lượng sản phẩm chế biến từ lâm sản còn thấp, giá thành cao nên rất khó cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Mặt khác, do việc hạn chế dần khai thác gỗ rừng tự nhiên
vì vậy cần chuyển hướng sử dụng các thiết bị và kỹ thuật chế biến sử dụng nguyên liệu gỗ khai thác từ rừng trồng. Khôi phục và đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống, hình thành mạng lưới vệ tinh về chế biến lâm sản đặc biệt là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Nhập khẩu công nghệ, thiết bị chế biến hiện đại.
4.2. Về khuyến lâm
Phát triển hệ thống khuyến lâm trên cơ sở xã hội hóa, đặc biệt ở địa phương cơ sở. Nội dung của khuyến lâm là phổ cập các chính sách của Nhà nước liên quan đến rừng và nghề rừng, hướng dẫn về thị trường, chuyển giao kỹ thuật lâm nghiệp và kỹ thuật canh tác bền
vững trên đất dốc. Việc phổ biến kỹ thuật và công nghệ được thực hiện thông qua các mô hình sản xuất hiệu quả cao và các mô hình quản lý rừng bền vững. Coi trọng xây dựng hệ thống khuyến nông cơ sở và quan tâm nhiều hơn đối với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số và những người nghèo.
5. Chứng chỉ rừng
Chứng chỉ rừng được coi là công cụ mềm để thiết lập quản lý rừng bền vững (QLRBV) nhằm vừa đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo các mục tiêu về môi trường và xã hội. Để đảm bảo rừng sản xuất được quản lý bền vững, trước hết các cơ sở sản xuất kinh doanh rừng phải đạt "Tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững". Để xác nhận QLRBV thì phải tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ rừng. Hiện đã có các tổ chức cấp chứng chỉ, như: Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) hoặc được FSC uỷ quyền (như Smartwood, Hội đất/soil association), SGS). Việc cấp chứng chỉ rừng chỉ thực hiện ở đơn vị quản lý, chưa có cấp chứng chỉ ở cấp quốc gia. Lợi ích của cấp chứng chỉ là sản phẩm từ rừng có tính cạnh tranh cao trên những thị trường coi trọng bảo vệ rừng và môi trường. Nếu có quy trình theo dõi quá trình hình thành sản phẩm từ khâu khai thác đến thành phẩm, gọi là chuỗi hành trình (Chain of custody) thì sản phẩm được dán nhãn của tổ chức cấp chứng chỉ.
6. Các chính sách khuyến khích
6.1. Chính sách đất đai
Tiếp tục rà soát đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các lâm trường quốc doanh. Giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình trồng rừng nguyên liệu, tạo điều kiện gắn lao động với đất đai, đảm bảo mỗi mảnh đất, khoảnh rừng có chủ quản lý cụ thể.
Mở rộng hình thức cho thuê, đấu thầu đất để trồng rừng. Khuyến khích tập trung đất đai hình thành các trang trại trồng rừng nguyên liệu. Mở rộng và củng cố quyền của người được giao đất, thuê đất cũng như làm rõ và đơn giản hoá thủ tục để người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình.
6.2. Chính sách tài chính
6.2.1.Về huy động vốn
Vốn Ngân sách Nhà nước (gồm cả vốn viện trợ không hoàn lại): được bố trí hàng năm trong kế hoạch để đầu tư cho việc bảo vệ rừng hiện có, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
Vốn tín dụng, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn huy động trong dân, quỹ hỗ trợ đầu tư, vốn vay nước ngoài... để đầu tư phát triển rừng sản xuất, đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở chế biến các sản phẩm từ rừng.
Vốn ngoài nước: thu hút vốn đầu tư cho các tổ chức, cá nhân, vốn vay(ODA), viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, Chính phủ, FDI...
6.2.2. Về lãi suất huy động và lãi suất cho vay
Nhà nước có chính sách đối với các tổ chức tín dụng cho vay vốn trồng rừng với lãi suất ưu đãi, thời gian vay phù hợp với loài cây trồng và đặc điểm sinh thái từng vùng. Đối với doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản khác được áp dụng mức lãi ưu đãi so với các ngành
công nghiệp khác.
Tiếp tục duy trì việc cho vay không lãi đối với hộ thuộc diện chính sách xã hội, hộ gia đình nghèo, khó khăn, ở các vùng còn gặp nhiều khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
6.2.3. Về hỗ trợ đầu tư
Nhà nước đầu tư cho việc bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, xây dựng rừng giống quốc gia, bảo vệ và phát triển các loài thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm, xây dựng hệ thống quản lý rừng hiện đại, thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, xây dựng lực lượng chữa cháy rừng chuyên ngành và trang thiết bị, phương tiện phục vụ chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật hại rừng.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ và làm giàu rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo kiệt, trồng rừng gỗ lớn, gỗ quý, trồng cây đặc sản; hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng vùng nguyên liệu tập trung; có chính sách khuyến lâm và hỗ trợ nông dân ở nơi khó khăn trong việc phát triển rừng, chế biến, tiêu thụ lâm sản.
6.2.4. Một số vấn đề khác
Ban hành các quy chế nhằm tăng cường nguồn tài chính cho hoạt động lâm nghiệp thông qua việc đồng tài trợ của các chủ thể cùng hưởng lợi ích do rừng mang lại, như: thuỷ lợi, thuỷ sản, nông nghiệp, du lịch và năng lượng.
Ở những địa phương khó có thể tiếp cận thị trường và khi tín dụng không đóng vai trò quan trọng, cần phải kết hợp vốn đầu tư ít với cung cấp nhiều dịch vụ khuyến lâm miễn phí và kết hợp vớI các nguồn dự trữ hỗ trợ lương thực khẩn cấp. ở những địa phương có thể tiếp cận thị trường được, tín dụng có thể cho vay thông qua sự hỗ trợ của các tổ chức cơ sở để nhận vốn vay của Ngân hàng Nhà nước có chính sách về tín dụng ưu đãi cho trồng rừng sản xuất và hỗ trợ kỹ thuật như cung cấp hạt giống, cây con để giảm chi phí đầu tư.
Về quỹ bảo vệ và phát triển rừng: việc thành lập quỹ bảo vệ và phát triển rừng nhằm mục đích từng bước tạo thêm nguồn vốn để hỗ trợ đầu tư phát triển rừng. Quỹ bảo vệ và phát triển rừng được hình thành từ nguồn tài trợ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước; đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài khai thác, chế biến xuất nhập khẩu lâm sản hưởng lợi từ rừng hoặc có ảnh hưởng trực tiếp đến rừng.
6.3. Chính sách hưởng lợi
Nhà nước có chính sách hưởng lợi[3] đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp phù hợp với từng loại rừng ở thời điểm được giao, thuê, nhận khoán rừng, gồm: gỗ, củi; các lâm sản ngoài gỗ; sản phẩm nông nghiệp trồng xen, vật nuôi; sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản; tiền công trả bằng tiền; được sử dụng một phần diện tích đất không có rừng được giao hoặc nhận khoán để sản xuất nông nghiệp.
6.4. Chính sách khai thác và chính sách thị trường lâm sản
6.4.1. Về khai thác
Đối với rừng tự nhiên Nhà nước hạn chế sản lượng khai thác gỗ, chỉ khai thác ở những khu rừng giàu hoặc trung bình, đình chỉ khai thác gỗ ở những vùng rừng quá nghèo, thực hiện các biện pháp tiết kiệm gỗ, thay thế sử dụng gỗ củi bằng nguyên vật liệu khác, nhập
khẩu gỗ để đáp ứng nhu cầu trước mắt về gỗ trong nước.
Đối với rừng trồng tổ chức hoặc cá nhân bỏ vốn để trồng rừng thì tổ chức, cá nhân đó có quyền quyết định thời điểm và phương thức khai thác theo quy định về quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Các cơ sở kinh doanh, chế biến lâm sản được tự do mua bán lâm sản khai thác hợp pháp từ rừng trồng. Các đơn vị kinh doanh lâm sản có đủ điều kiện được phép nhập khẩu gỗ với số lượng không hạn chế, trong đó được miễn thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
6.4.2.Về thị trường
Xây dựng chính sách và chiến lược thị trường lâm sản. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, nghiên cứu tìm hiểu thị trường và thị hiếu ngưòi tiêu dùng để sản xuất những sản phẩm thích hợp nhằm chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cao. Nghiên cứu để đưa ra các chính sách tiêu thụ sản phẩm cho dân, chú trọng sản phẩm từ rừng trồng. Rà soát và xoá bỏ các thủ tục phiền hà cản trở việc tiêu thụ sản phẩm từ rừng trồng. Khuyến khích chế biến và xuất khẩu sản phẩm từ rừng trồng đã qua chế biến.
6.5. Chính sách thuế
6.5.1. Thuế tài nguyên
Về lâu dài, Pháp lệnh thuế tài nguyên cần được nâng lên thành luật với phạm vi điều chỉnh rộng hơn, căn cứ tính thuế chi tiết hơn. Thuế tài nguyên cần phải trở thành nguồn thu đặc biệt, đồng thời trở thành công cụ đắc lực trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động khai thác., khuyến khích sử dụng hợp lý tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
6.5.2. Thuế VAT
Chỉ nên áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh nếu không đủ điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng phương pháp kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế.
6.5.3. Thuế xuất, nhập khẩu
Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải được xây dựng phù hợp với các cam kết quốc tế về lịch trình cắt giảm thuế quan khi tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Đối với các sản phẩm gỗ rừng trồng đã qua chế biến khi xuất khẩu nên áp dụng thuế suất bằng 0 (0%). Nhà nước nên giảm thuế nhập khẩu gỗ so với hiện nay. Thuế suất thuế xuất khẩu đối với sản phẩm làm từ gỗ rừng tự nhiên giữ nguyên mức như hiện nay.
6.5.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp nên tiếp tục cải cách theo hướng thống nhất điều chỉnh giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Các đối tượng là cá nhân kinh doanh sẽ chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ chỉ đánh vào các đốI tượng là pháp nhân kinh tế với các quy định thông thường hơn, áp dụng mức thuế suất ưu đãi nhất theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế suất 15%) dựa trên cơ sở coi nông, lâm nghiệp là lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; cần có thời gian miễn giảm thuế đối với các cơ sở kinh tế mớI thành lập.
6.6. Chính sách xã hội
6.6.1. Phát triển nguồn nhân lực
Nhà nước đầu tư củng cố hệ thống đào tạo kỹ thuật ngành lâm nghiệp, có chính sách đào tạo đối với con em nông dân, con em đồng bào các dân tộc thiểu số, con em cán bộ công nhân viên theo học các bậc trung cấp, cao đẳng và đại học, trên đại học để phục vụ lâu dài sự nghiệp phát triển lâm nghiệp.
Đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý và công chức của ngành triển lâm nghiệp. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức kiểm lâm cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới.
Nhà nước hỗ trợ thực hiện các chương trình phổ cập có liên quan đến môi trường và nghề rừng cho nông dân. Tạo hành lang thông thoáng về pháp luật để người lao động trong lâm nghiệp phát huy tiềm năng nội lực, sử dụng hợp lý đất đai, tài nguyên rừng.
6.6.2. Chính sách định canh định cư và phát triển vùng kinh tế mới
Nhà nước hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo địa bàn sản xuất ổn định, nhất là về sản xuất lương thực, thực phẩm và hỗ trợ phát triển sản xuất có chính sách mạnh mẽ giúp các hộ còn du cư, du canh để định canh, định cư có điều kiện thuận lợi về phát triển sản xuất, ổn
định đời sống. Những hộ di cư tự do đã đến các địa phương, chính quyền địa phương nơi có dân đến phải bố trí đồng bào vào vùng quy hoạch, tạo điều kiện làm ăn sinh sống cho đồng bào.
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP TỈNH
1. Tình hình xây dựng chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Tỉnh
1.1.Tình hình chung
Tính đến năm 2002 đã có 44 tỉnh có rừng trong tổng số 64 tỉnh, Thành phố của cả nước đã xây dựng kế hoạch phát triển lâm nghiệp đến năm 2010, trong đó có 7 tỉnh xây dựng Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh (Đắc Lắc, Thanh hoá, Vĩnh Phúc, Sơn La, Nghệ An, Quảng trị và Thừa Thiên - Huế ), số tỉnh còn lại xây dựng Quy hoạch phát triển lâm nghiệp/hoặc Quy hoạch phát triển Nông nghiệp và nông thôn/ hoặc Quy hoạch phát triển ba loại rừng.
1.2. Kết cấu trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp hoặc quy hoạch tổng thể lâm nghiệp tỉnh
Tất cả các Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh hoặc Quy hoạch tổng thể Lâm nghiệp tỉnh đều có điểm về đích là đến năm 2010 và được thể hiện qua 3 phần chính:
- Phần thứ nhất là hiện trạng ngành lâm nghiệp tỉnh, gồm: khái quát điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên và hiện trạng ngành lâm nghiệp của tỉnh cũng như những diễn biến về rừng trong giai đoạn 1992 – 2000 (có một số tỉnh lấy năm 1995 hoặc 1996 làm mốc đánh giá diễn biến tài nguyên rừng).
- Phần thứ hai là nội dung phát triển lâm nghiệp tỉnh, gồm: những quyết sách của chính quyền tỉnh về mục tiêu, định hướng chiến lược và các giải pháp để phát triển toàn diện ngành lâm nghiệp tỉnh, những chương trình ưu tiên thực hiện cho từng giai đoạn 2, năm 5
năm và cả thời kỳ, đây cũng được xem như kế hoạch thời gian để thực hiện chiến lược.
- Phần thứ ba là phần kết luận và kiến nghị, nhằm khẳng định lại sự đúng đắn của mục tiêu và tính khả thi của chiến lược phát triển lâm nghiệp. Đồng thời đề xuất những vấn đề cần được chính quyền tỉnh và Chính phủ xem xét giải quyết cả về nguồn kinh phí, chính
sách, hành lang pháp lý... để chiến lược có được các điều kiện cần và đủ trong quá trình triển khai thực hiện.
1.3. Nhận xét
Các Chiến lược/hoặc Quy hoạch tổng thể phát triển lâm nghiệp tỉnh đều phản ảnh được hiện trạng lâm nghiệp của địa phương. Đưa ra quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển. Xác định các chương trình, dự án ưu tiên trong việc thực hiện chiến lược. Tuy nhiên, việc xây dựng chiến lược có tồn tại là chưa có sự thống nhất trong cả nước về phương pháp, trình tự, nội dung. Chiến lược còn nặng về nội dung quy hoạch, còn nhiều tỉnh chưa xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp, nhiều tỉnh xây dựng Quy hoạch Phát triển Lâm nghiệp từ các năm 1998 - 1999 nên phần định hướng chưa sát với định hướng phát triển lâm nghiệp quốc gia.
[1] Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
[2] Quyết định số 199/QĐ-BNN-PTLN ngày 22/01/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phê duyệt "Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001-2010"
[3] Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ về Quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.