Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Phần II:Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta
21 | 07 | 2007
Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện.
Ðàm phán song phương
Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song phương. Ða phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Ði đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô về đa phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định của WTO khi chúng ta gia nhập. Chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không đúng với quy định của WTO: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa hóa,... Các trợ cấp mà WTO cho phép chúng ta vẫn thực hiện: trợ cấp liên quan xúc tiến thương mại; đầu tư, du lịch, nâng cao chất lượng hàng hóa, cước phí vận tải,... Một vấn đề quan trọng của vòng đàm phán Doha đó là vấn đề trợ cấp hàng nông sản. Việt Nam là nước rất đặc biệt, đất chật, người đông. Khi đàm phán với Australia thì thấy một hộ của họ có đến 200 ha. Còn bình quân đất canh tác Việt Nam chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, Việt Nam lại có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới. Ðây là một sự thật: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế giới); cà phê (đứng thứ 2 thế giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế giới), chè chúng ta có sản lượng đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Ðây là trường hợp rất đặc biệt của thế giới. Cho nên, trong đàm phán song phương, nhiều nước Mỹ la-tinh yêu cầu đàm phán là vì thế. Họ cho rằng, Việt Nam có mặt hàng nông sản tràn ngập thị trường thế giới, làm cho các nước Mỹ la-tinh gặp khó khăn, nhất là cà phê. Trước đây, giá cà phê rất cao, bây giờ chỉ còn hơn 1.000 USD/tấn, trong đó có sự tham gia của Việt Nam và nhiều nước khác. Giá trị của một cốc cà phê không đổi. Chỉ có lợi nhuận chuyển từ người trồng cà phê sang người chế biến và tiêu thụ cà phê. Chính vì thế, ông David nói, Việt Nam phải làm thế nào tăng giá trị vào hàng xuất khẩu của mình. Muốn vậy, chế biến chiếm vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta bán 1kg cà phê, tại hội nghị Hồng Kông, báo chí viết giá 1kg cà phê là 1USD. Nhưng khi chế biến 1 kg cà phê để bán cho người tiêu dùng cho vào cốc cà phê, thì giá sẽ lên tới 600 USD. Tất nhiên còn nhân công, vốn,... Chúng ta thấy tại sao cà phê Trung Nguyên phát triển, vì họ tham gia vào chế biến, phân phối tiêu thụ, cho nên lợi nhuận siêu ngạch nằm trong đó. Ðó là phần quan trọng.
Việt Nam khi đàm phán đa phương, chúng tôi lại phải đàm phán cả vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam canh tác lạc hậu, nhưng lại xuất khẩu được nhiều. Ðây là một xu hướng mà tất cả các nước vừa qua đều phải bỏ trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập đối với hàng nông sản. Chúng ta cũng phải chấp nhận xu hướng này. Nhưng, 10% đối với hộp xanh (trợ cấp trong nước) thì Việt Nam vẫn được hưởng đầy đủ. Nhưng, đối với Trung Quốc (vì Trung Quốc phát triển hơn Việt Nam) nên mức cam kết của Trung Quốc là 8%. Mức 10%, lâu nay chúng ta sử dụng rất ít. Chúng ta bỏ trợ cấp xuất khẩu, nhưng chúng ta chuyển tiếp vào cho người nông dân, người sản xuất và chế biến nông sản, không trợ cấp vào xuất khẩu nữa. 10% đối với ngành nông nghiệp Việt Nam vào khoảng 11 tỷ USD. Nên nếu 10% chúng ta có 1,1 tỷ USD/năm, để phục vụ hỗ trợ cho nông dân trong nước, mức đó bảo đảm nền nông nghiệp ổn định phát triển trong tương lai.
Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện. Còn đối với trợ cấp trong các lĩnh vực khác liên quan dệt may, chúng ta có Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ. Khi những người dịch lại cho các cơ quan nước ngoài, phiên dịch không chuẩn. Trong Quyết định số 55, chúng ta nói hỗ trợ các doanh nghiệp để sản xuất hàng dệt và may để xuất khẩu. Nhưng, từ hỗ trợ không có nghĩa là cho không (nhiều người dịch là subsidize - cho không) dẫn đến có sự hiểu lầm. Chúng ta chỉ hỗ trợ vay vốn, Nhà nước chỉ hỗ trợ chênh lệch giữa lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi, tổng cái đó chỉ có năm triệu USD. Khi đàm phán với Hoa Kỳ, phía họ nói Việt Nam trợ cấp bốn tỷ USD cho ngành dệt may. Ðiều đó không phải. Khi chúng ta chứng minh đầy đủ số liệu, đoàn Hoa Kỳ mới cho là đúng. Thứ nhất, vấn đề cấp phép, Việt Nam cấp phép cho tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực dệt may. Thứ hai, chênh lệch, Việt Nam chỉ ưu đãi về lãi suất, trong thời gian qua chỉ có năm triệu USD, như vậy không phải lớn. Nhưng, để thực hiện đàm phán với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ Quyết định 55. Hoa Kỳ sẽ bỏ hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam. Khi bỏ hạn ngạch dệt may của Hoa Kỳ, thì EU và Canada đã bỏ hạn ngạch cho chúng ta từ năm 2005. Khi gia nhập WTO, toàn bộ dệt may không bị hạn ngạch nữa. Ðây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta cũng phải bỏ một số quy định cấm: nhập khẩu thuốc lá điếu, ô-tô đã qua sử dụng, linh kiện liên quan máy tính. Trên thực tế, cấm nhập ô-tô đã qua sử dụng đã bỏ rồi, vấn đề hiện nay là thuế, làm thế nào bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Tài chính đang tiếp tục làm để xử lý vấn đề thuế, vì đây cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta một mặt cần bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đồng thời cũng cần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Phải cân đối hai lợi ích này, chứ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của người sản xuất, mà không chú ý đến lợi ích của người tiêu dùng.
Ðàm phán song phương chúng ta đã cơ bản kết thúc với 28 đối tác. Trong đàm phán song phương, Việt Nam đưa ra bản chào số 4, chào đến 99% số biểu thuế. Thí dụ, đàm phán với Hoa Kỳ, tổng số dòng thuế là 9.400 dòng thuế. Còn với các nước, tùy thuộc, có nước 3.000, có nước 5.000, có nước chỉ là 200 dòng thuế. Tùy theo yêu cầu của các nước, biểu 4 chúng ta đã chào mức thuế tương đương với 18% số hàng công nghiệp, nông nghiệp. Từ đó, chúng ta đi đến đàm phán. Trên cơ sở đó chúng ta cơ bản đã kết thúc. Mức thuế trung bình hàng nhập khẩu, hàng nông sản và hàng công nghiệp khoảng xấp xỉ 14%. So với Trung Quốc, khi gia nhập, cam kết mức trung bình 10,4%. Kinh tế Việt Nam mức phát triển thấp hơn Trung Quốc. Cho nên, mức chúng ta cam kết chênh với Trung Quốc là hợp lý.
Trong đàm phán, Oxfarm (một tổ chức phi chính phủ) hỏi, như vậy thì ngành nông nghiệp của Việt Nam liệu có tồn tại và phát triển được không? Hàng hóa sẽ tràn ngập vào thị trường Việt Nam có phải không? Xem chi tiết từng hàng, báo cáo Chính phủ thông báo lại cho các doanh nghiệp. Nhìn tổng thể thấy hàng hóa không tràn ngập, sẽ có nhập khẩu tăng. Chúng ta đã trải qua thử thách trong thị trường mậu dịch tự do ASEAN, mức thuế có lộ trình xuống 0-5%, chúng ta thực hiện lộ trình sát AFTA rồi, nhưng tới bây giờ thị trường có tràn ngập hàng hóa của ASEAN đâu. Gia nhập WTO, thuế chúng ta đang từ mức 18%, giảm xuống 4% nữa, còn khoảng 14%. Như vậy, không có chuyện đó, và xuống đến mức đó thì chúng ta thôi. Trong đàm phán gia nhập WTO, một trong những nguyên tắc khó khăn nhất chúng ta phải vượt qua là để các nước hiểu thực tế Việt Nam và công nhận Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Ở Việt Nam có một nghịch lý, thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 1.000 USD/năm, trong lúc WTO quy định những nước kém phát triển là nước có thu nhập dưới 1.000 USD. Nhưng, Việt Nam không được xếp vào nước kém phát triển, vì khi Liên hợp quốc công nhận Việt Nam là nước đang phát triển có cộng thêm các tiêu chí về y tế, văn hóa, giáo dục, nên mới xếp Việt Nam là nước đang phát triển. Về kinh tế thu nhập chúng ta thấp. Cho nên, chúng ta phải thương lượng để được công nhận ở trình độ thấp.
Hai là, nền kinh tế của chúng ta có thời kỳ chuyển đổi, nên có lộ trình giảm thuế, lộ trình chuyển đổi thị trường. Lộ trình giảm thuế lấy mức thuế hiện hành bắt đầu giảm trong vòng 3-5 năm sẽ xuống mức 14%. Tất nhiên, từng mặt hàng có mức cắt giảm khác nhau: xe máy phân khối lớn theo lộ trình chúng ta cắt xuống còn 45% (hiện nay 60%); ô-tô tùy loại mức cắt giảm xuống còn 52% hoặc 47% hoặc 50%. Chúng ta áp mức thuế bảo hộ cho ngành ô-tô, xe máy khá cao. Cho nên trên thực tế mức đó không phù hợp lắm, nếu chỉ bảo vệ cho người sản xuất, thì người tiêu dùng Việt Nam hiện nay chịu mức giá ô-tô cao nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta phải giảm thuế, một mặt phải bảo vệ người sản xuất, mặt khác phải cân đối lại lợi ích của người tiêu dùng. Hơn nữa, thực tế các tập đoàn đa quốc gia phân vùng, phân khu vực thành thị trường, cho nên đó cũng là điều kiện. Một số ngành sản xuất trong nước của Việt Nam hiện nay cũng đã phát triển. Cho nên, những ngành đó trong thời gian qua đã thay thế được phần lớn các mặt hàng lâu nay vẫn nhập khẩu. Khi chúng ta mở cửa thị trường, các nhà sản xuất trong nước có sản phẩm rồi. Muốn hay không họ phải giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như thế, chúng ta sẽ có điều kiện đó. Thí dụ, phân đạm chúng ta đã có nhà máy phân đạm, nếu thuế có cao thì nhà máy phân đạm trong nước đã có khả năng cung cấp cho thị trường. Toàn bộ ngành bia, có mở nữa cũng coi như toàn bộ các công ty bia của Việt Nam vẫn cạnh tranh được; hoặc vật liệu xây dựng, xi-măng, thép (chủ yếu thép xây dựng, bắt đầu có đầu tư thép cao cấp), điều kiện kinh tế của Việt Nam bây giờ đã khác xa so với cách đây 15 năm.
Ðối với nông nghiệp, các nước thành viên cũ, mức thuế nông nghiệp khoảng 22%. Nhưng xu hướng các nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều hơn để gia nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải mất vài chục năm đấu tranh từ GATT để có thành quả như bây giờ. Các nước mới gia nhập nhiều hay ít đều phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm thuế.
Nhưng, tổng thuế với nông nghiệp, Việt Nam có lợi thế là có nhiều mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu. Ðã xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế giới. Chúng ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bò, thịt lợn là các mặt hàng từ chăn nuôi đơn lẻ, chưa có theo hình thức trang trại. Cho nên, trong đàm phán rất khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò Việt Nam phần lớn là bò cóc, mỗi hộ nuôi 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh tranh không cao. Giống bò của Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu, phần trợ cấp của Nhà nước trong lĩnh vực này hầu như không có. Các nước cũng thấy được khó khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5% so với mức thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tôi cũng nói thẳng đàn bò cóc Việt Nam chết, không tồn tại. Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển, mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ không phải mở theo bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng, các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm phán với Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bò và thịt lợn, thuế nông nghiệp. Chúng tôi phải chấp nhận điều kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với Australia và New Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều chỉnh. Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước đều hưởng mức thuế như nhau. Cuối cùng Ban Thư ký sẽ tổng hợp lại.
Ðàm phán song phương là những cuộc đàm phán căng thẳng. Tất cả các đối tác yêu cầu đàm phán đông vì các lý do: họ cho rằng Việt Nam là một thị trường tương lai hứa hẹn, vì Việt Nam có số dân đông thứ 13 thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ hơn 30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực. Ðây là điều các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Có thể nói, thương mại Việt Nam những năm qua tăng liên tục nhưng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chưa phải là lớn lắm. Thí dụ, năm 2005 kim ngạch cả xuất, nhập khẩu mới đạt hơn 60 tỷ USD. Nếu riêng xuất khẩu mới khoảng hơn 30 tỷ USD, chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Ðàm phán các nước thống nhất như vậy, nhưng nhìn vào tương lai, nhiều nước đòi hỏi được đàm phán. Khi chúng ta đàm phán với Trung Quốc, chúng ta tưởng giữa Việt Nam - Trung Quốc đã có Hiệp định tự do thương mại trong ASEAN, nên không cần đàm phán nữa, nhưng với Trung Quốc vẫn phải đàm phán 10 phiên, rất nhiều phiên căng thẳng, đàm phán suốt đêm, nhiều vấn đề căng: mở du lịch, ngân hàng phụ, mở vận tải đường bộ, nhưng sau đó, chúng ta thấy khi đàm phán phải dựa vào quy định của WTO. Chúng ta thấy về vấn đề đường bộ, trong WTO chưa phát triển, hầu như chưa nước nào cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp nhận.
Ðặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa dạng hơn. Ðàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Vì vậy, để có được PNTR, Hoa Kỳ yêu cầu chúng ta phải có đủ BTA, gia nhập WTO. Hiện nay, chúng ta làm xong cả hai nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam thực hiện đầy đủ BTA, đồng thời kết thúc đàm phán về gia nhập WTO. Ðó là điều kiện để trình PNTR, chúng ta đang tích cực vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Việt Nam mới được hưởng thuế phổ thông, chưa được hưởng thuế ưu đãi GST. Hoa Kỳ dành cho 72-74 nước được hưởng GST không có Việt Nam, cho nên, gia nhập WTO là cơ hội cho chúng ta trong một số vấn đề mà chúng tôi nêu.
Kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ có người nói chưa hài lòng, có người nói được nhiều, có người nói được ít. Chúng tôi thống nhất đây là đàm phán mà hai bên đều giành thắng lợi. Trên thực chất, các nhà đàm phán luôn như thể no bụng đói con mắt, thường đòi những điều kiện cam kết rất cao, nhưng nhà doanh nghiệp không cần cái đó. Nhà doanh nghiệp miễn có lợi là làm. Cam kết có cao mấy mà không có lợi thì vẫn không vào. Ðó là sự khác nhau giữa nhà đàm phán và doanh nghiệp. Thí dụ đòi mở ngân hàng như thế chúng ta đã cho chi nhánh 100% vốn, nhưng ngân hàng Mỹ vì chiến lược phát triển của họ nên rút, không ở Việt Nam. Giữa cam kết của nhà đàm phán với doanh nghiệp có khoảng cách. Nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ mà giành được PNTR, quỹ OPEC, quỹ hỗ trợ ngân hàng EXIMBANK mới hoạt động mạnh. Khi đó quan hệ đầu tư của các nhà đầu tư lớn, xuất khẩu của Hoa Kỳ mạnh hơn. Kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới.


(Theo MOT)
Báo cáo phân tích thị trường