Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Phần III:Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta
13 | 06 | 2007
Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore khi mở cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được người tài để phục vụ đất nước.
Những thách thức khi gia nhập WTO
Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng gặp rất nhiều thách thức. Thứ nhất, chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì chúng ta phải mở cửa thị trường cho các nước. Ðây là thách thức lớn nhất. Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ có số lượng rất đông 230 nghìn doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho nên năng lực cạnh tranh kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các doanh nghiệp Việt Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bởi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó dẫn tới năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác, mai khác. Thí dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ là sẽ đóng nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi, chuyển từ châu Âu sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất cao, thì Việt Nam lại trở thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế giới. Chúng ta có ưu điểm: công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể đóng tàu quanh năm. Ngành may mặc thì lương công nhân ở các nước ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam; Thái Lan, Malaysia đang rất thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu đến ba triệu lao động, Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác phải chuyển sang Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ chuyển các lĩnh vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam lại phải chấp nhận sự cạnh tranh như thế. Thứ ba là, rất nhiều chính sách liên quan kinh tế thương mại sẽ thay đổi. Thí dụ phần liên quan trợ cấp cũ mà không phù hợp, WTO sẽ bỏ hạn ngạch, cấp phép, rồi cũng sẽ bỏ hết. Như thế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của chúng ta. Nhưng đồng thời làm cho các doanh nghiệp lâu nay dựa vào đó sống và phát triển phải chuyển sang hình thức kinh doanh không được bảo hộ hoặc mức bảo hộ thấp.
Thuế cũng như vậy, Nhà nước giảm thuế cũng tác động một phần đến ngân sách. Phần đóng góp ngân sách từ thuế nhập khẩu mỗi ngày một giảm. Trước kia, thuế nhập khẩu có lúc đến 30% GDP, bây giờ chỉ còn 15%, nhưng kim ngạch buôn bán tăng thì nó tăng. Chúng ta tăng kim ngạch buôn bán để tăng thuế. Hoặc có những cam kết chúng ta đã thực hiện rồi, như trị giá hải quan, chúng ta bỏ thuế mà áp dụng mức thuế tuyệt đối... Các doanh nghiệp nhập khẩu, giá theo giá hợp đồng. Có một số doanh nghiệp ảnh hưởng, nhưng kiểm tra, kiểm soát thì nó đi vào trật tự. Thế giới cũng phải trải qua giai đoạn đó không riêng quốc gia nào. Qua hậu kiểm để bảo đảm thu thuế. Vấn đề an sinh xã hội, sẽ phải giải quyết tình trạng một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc không có năng lực cạnh tranh sẽ gặp khó khăn, phá sản. Vậy giải quyết vấn đề trợ cấp, việc làm như thế nào cho lao động các doanh nghiệp này, đào tạo lại để họ tìm việc làm mới. Ðấy là những việc chúng ta phải làm.
Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore khi mở cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được người tài để phục vụ đất nước. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người lao động giỏi, cho nên chúng ta, một mặt, cũng phải có chiến lược đào tạo, giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tùy vào từng doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Có nhiều cách khác nhau để giữ người, cổ phần nhất định, lương cao, đối xử, tình cảm,... Muốn hay không Nhà nước phải có chính sách để đào tạo, đào tạo lại người lao động. Hiện nay, tuy Việt Nam có lao động đông, nhưng lao động của chúng ta cũng có một số hạn chế: yếu ngoại ngữ, tác phong công nghiệp. Không chỉ trong lĩnh vực các doanh nghiệp mà cả ở các cơ quan quản lý nhà nước. Thí dụ, Trung Quốc, có hẳn một chỉ thị, đối với cán bộ lãnh đạo quận, huyện, các tỉnh biên giới gần Việt Nam phải biết tiếng Việt. Cho nên, khi chúng ta sang đó họ nói tiếng Việt rất thạo. Vấn đề là cán bộ quản lý Việt Nam phải biết ngoại ngữ. Mặt khác, phải chuyển cách quản lý theo phong cách mới. Ngày xưa quản bằng các lệnh, chỉ thị, can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp, thì nay không còn, còn rất ít, chỉ còn những doanh nghiệp có vốn lớn của Nhà nước, quản lý thông qua biện pháp gián tiếp như xây dựng pháp luật, chính sách và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đó. Việc nắm từng ngành, hàng, không giống như trước, nhưng vẫn phải nắm. Khi chúng ta bỏ quản lý xuất khẩu gạo, lúc đầu mọi người rất ngại, sợ có thể xuất vượt, đến khi quyết định làm thì làm rất tốt. Mọi thành phần có thể xuất khẩu gạo được, nhưng chúng ta vẫn quản lý được vì mọi công việc giao cho hiệp hội. Hiệp hội đóng vai trò chính. Hiện nay, Nhà nước chuyển những vai trò mà Nhà nước không làm sang hiệp hội ngành hàng để bảo vệ ngành hàng, hợp tác liên kết để phát triển. Các cách làm cũ giành khách hàng bằng hạ giá không còn giá trị, làm ta yếu đi. Vai trò của hiệp hội, ngành hàng rất quan trọng. Liên kết để phát triển để xây dựng hệ thống phân phối trong nước. Các doanh nghiệp liên kết để ra thị trường thế giới, liên kết doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chúng ta cần liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và phát triển. Hiện nay, thị trường trong nước còn rất nhiều điều kiện phát triển. Có nhiều sinh viên Việt Nam sang học thạc sĩ ở Hoa Kỳ rất giỏi, có những trường Hoa Kỳ giữ lại, số đó vẫn về Việt Nam vì họ thấy cơ hội làm ăn ở Việt Nam nhiều hơn ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã phát triển tới mức độ rất cao. Muốn làm ăn ở Hoa Kỳ phải có vốn, mạng lưới mới sống được, nhưng về Việt Nam có rất nhiều cơ hội.
Ðấy cũng là những thách thức, nhưng nếu chúng ta biết vượt lên chúng ta sẽ phát triển. Khi làm việc với hãng Nokia, thấy chiến lược nhờ đó mà họ trở thành công ty điện thoại di động số 1 thế giới, họ coi tất cả những thách thức là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không có cuộc sống. Họ coi thách thức là một cơ hội, khi họ vượt qua được thì họ trở thành số 1. Chúng tôi cho rằng gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều thách thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh nghiệp. Nói mở thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản xuất hàng xuất khẩu thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mở ra để thu hút đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì chúng ta cũng không đạt. Gia nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng không có nghĩa bản thân việc gia nhập WTO là chúng ta giàu có lên, hay chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó, thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được thách thức thì chúng ta tạo được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ được thời cơ này, và chấp nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn.


(Theo MOT)
Báo cáo phân tích thị trường