Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
“Nếu không chấn chỉnh, nhiều hộ chăn nuôi sẽ phá sản”
26 | 09 | 2008
Thịt ngoại nhập tràn lan đang là một trong những thủ phạm “giết” ngành chăn nuôi trong nước. Vì sao một nước nông nghiệp như VN lại phải chịu nghịch lý này? Tuổi Trẻ đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đức Bình - phó chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi VN. Ông Bình cho biết:
- Nói thịt nhập đang góp phần “giết chết” ngành chăn nuôi là hoàn toàn chính xác, nhưng không phải do những sản phẩm này có giá rẻ mà cách thức nó xâm nhập thị trường VN.

Theo cam kết WTO, đến năm 2012 VN mới phải cắt giảm thuế suất nhập khẩu sản phẩm thịt heo xuống còn 25% và 15% tùy loại. Tương tự là các sản phẩm thịt gà cũng được cắt giảm thuế xuống 15%. Tuy nhiên, vừa qua chúng ta đã sớm cắt giảm thuế suất nhập thịt heo xuống còn 20% và 12% đối với thịt gà. Điều này đã khiến ngành chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn hiện nay.

Cho đến nay, khi sản phẩm thịt nhập đã tràn ngập thị trường VN, hàng loạt hộ chăn nuôi đã và đang rơi vào cảnh phá sản, người chăn nuôi mới “bật ngửa” ra trước thông tin thuế nhập khẩu các sản phẩm thịt đã giảm mạnh. Hầu như không một người chăn nuôi nào - đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi việc điều chỉnh thuế này - nhận được thông tin một cách đầy đủ về việc cắt giảm thuế này.

Ngay cả ngành nông nghiệp cũng không có bất cứ khuyến cáo nào để người chăn nuôi có thể chủ động giảm đàn, ngừng chăn nuôi, hoặc có biện pháp đối phó hiệu quả trước nguy cơ cạnh tranh với thịt nhập.

Điều ngạc nhiên là đến nay chúng ta chưa có bất cứ một bộ tiêu chuẩn nào để kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm thịt nhập. Ai đảm bảo được số thịt nhập này không có tồn dư chất tăng trưởng, chưa kể hàng loạt phụ phẩm cũng dễ dàng đưa vào thị trường VN... và trong thực tế chưa thấy cơ quan nào kiểm soát vấn đề này.

* Nhưng giá thịt nhập thấp hơn nhiều so với thịt sản xuất trong nước, vì sao thưa ông ?

Nuôi gà công nghiệp ở xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, TP.HCM - Ảnh: N.C.T.
- Giá thịt nhập rẻ hơn so với thịt sản xuất trong nước vì được xem là những mặt hàng phụ phẩm, không được người tiêu dùng các nước ưa chuộng mới xuất qua VN. Chẳng hạn, thói quen tiêu dùng tại các nước Âu, Mỹ là chọn ức gà và được bán với giá rất cao, các bộ phận còn lại trong con gà được bán với giá rất rẻ.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận giá thành chăn nuôi tại VN hiện nay quá cao, hơn 20% so với các nước trong khu vực, trong khi các nước trong khu vực cũng có giá thành cao hơn 20% so với các nước có ngành chăn nuôi phát triển.

Có rất nhiều yếu tố khiến giá thành chăn nuôi ở VN quá cao như hiện nay, đó là thuế VAT 5% đối với thức ăn chăn nuôi (TACN) trong khi các nước trong khu vực không có thuế suất này. Rồi chi phí vận chuyển tăng, lãi suất ngân hàng cao, năng suất chăn nuôi của người nông dân thấp, đặc biệt là giá bán các sản phẩm TACN không ổn định và quá cao...

* Trong các yếu tố kể trên, giá TACN đang gây rất nhiều bức xúc đối với người chăn nuôi do cao hơn các nước trong khu vực. Ngay cả trong thời điểm giá nguyên liệu thế giới giảm mạnh thời gian qua nhưng giá TACN cũng chỉ giảm nhẹ ?

- Sự bức xúc của người chăn nuôi là hoàn toàn có cơ sở. Trong khi người chăn nuôi đang khốn đốn, các nhà sản xuất TACN không những không chia sẻ với họ mà còn góp phần gây thêm khó khăn. Cụ thể, trong ba tháng qua giá nguyên liệu thế giới đã giảm khoảng 30%, riêng đậu nành giảm đến 140 USD/tấn trong một tháng qua, nhưng đến nay các nhà sản xuất TACN trong nước điều chỉnh giảm giá bán không đáng kể, khoảng 2,6%.

Sự chậm trễ trong việc điều chỉnh giảm giá khi giá nguyên liệu giảm hiện nay của các nhà sản xuất TACN hoàn toàn ngược lại với xu hướng điều chỉnh tăng giá bán liên tục, thậm chí tăng giá đến ba lần trong vòng một tháng khi giá nguyên liệu thế giới tăng trong những tháng trước đó. Lẽ ra, các nhà sản xuất phải tính toán một tỉ lệ lãi định mức, khi giá nguyên liệu lên sẽ điều chỉnh giá bán một cách hợp lý, và ngược lại giảm giá bán phù hợp với giá nguyên liệu giảm. Ngược lại, các nhà sản xuất TACN tại VN thường “ăn” chênh lệch giá thay vì tính toán lợi nhuận định mức.

Cách hành xử này của các nhà sản xuất, theo tôi, giống như một “con buôn” hơn là một nhà sản xuất đúng nghĩa.

* Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu khiến giá TACN cao và giá thành chăn nuôi cũng bị đẩy lên, thưa ông ?

- Một nước nông nghiệp như VN mà nguyên liệu cho ngành sản xuất TACN lại quá phụ thuộc nhập khẩu là điều khá nghịch lý. Chẳng hạn bắp, một loại nguyên liệu có thể phát triển mạnh trong nước nếu có chính sách hợp lý. Là quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, nhưng mỗi năm phải nhập gần nửa triệu tấn bắp là điều rất nghịch lý.

Theo tôi, có thể khuyến khích một số vùng chuyển từ trồng lúa sang trồng bắp, đồng thời có chính sách bảo hộ cho người trồng bắp. Việc nhập và xuất khẩu bắp hiện nay đều không chịu thuế. Điều này dẫn đến tình trạng là vào vụ thu hoạch bắp được xuất đi ào ạt, và ngược lại bắp được nhập ào ạt khi hết vụ với giá mua vào 1,5-2 lần giá bán ban đầu.

Lẽ ra chúng ta phải đánh thuế cả khâu xuất lẫn khâu nhập bắp để vừa bảo hộ cho ngành chăn nuôi và cả người trồng bắp. Cứ cho năng suất bắp ở các nước cao hơn, nhưng chi phí vận chuyển bắp từ Nam Mỹ về đến VN hiện nay cũng lên tới 1.000 đồng/kg. Vì vậy nếu chủ động được nguồn nguyên liệu này sẽ giảm được chi phí giá thành rất lớn cho người chăn nuôi.

* Theo ông, làm thế nào để ngành chăn nuôi có thể tiếp tục “sống” được mà người tiêu dùng VN không phải sử dụng sản phẩm thịt giá cao?

- Trước mắt, việc nâng thuế nhập khẩu để bảo hộ cho người chăn nuôi là cần thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời. Còn về lâu dài, mỗi khâu trong hoạt động chăn nuôi phải có sự điều chỉnh phù hợp, trên cơ sở có sự cầm trịch của cơ quan quản lý ngành chăn nuôi.

Do đó, nhà sản xuất phải làm thị trường và kế hoạch sản xuất tốt hơn, không thể cứ thấy giá nguyên liệu tăng thì nhập ào ạt, rồi khi giá xuống lại không nhập, hậu quả người chăn nuôi lãnh đủ. Bản thân người chăn nuôi cũng không thể cứ trông chờ vào sự bảo bộ của Nhà nước, mà phải tự cứu lấy mình bằng các biện pháp nâng cao hiệu quả chăn nuôi.

Chẳng hạn, thay vì đi mua TACN thành phẩm, người chăn nuôi có thể mua loại đậm đặc và các loại nguyên liệu khác (bắp, mì...) về để tự chế biến. Với cách thức này, không chỉ chất lượng TACN vẫn đảm bảo mà giá thành cũng giảm, ít nhất là không phải chịu thuế VAT 5%, chưa kể các chi phí khác như đóng gói, bao bì, nhãn mác và cả phí quảng cáo của nhà sản xuất…



Nguồn: www.tuoitre.com.vn
Báo cáo phân tích thị trường