Lãi suất cao, tiếp cận khó
Mặc dù các ngân hàng (NH) đã công bố những khoản vay với lãi suất (LS) ưu đãi nhưng vẫn rất ít DN tiếp cận được nguồn vốn. Công ty Giấy Sài Gòn cho biết, những ngày qua, một số NH đã giảm LS cho các hợp đồng đã vay từ 1-1,5%/năm nhưng vẫn ở mức cao, 20-21%/năm. Tương tự, Công ty TNHH thương mại - sản xuất Anh Khoa (TP.Hồ Chí Minh) cho biết cũng chưa thể vay được khoản nào có LS dưới 20%/năm.
Tại các NH ở TP.Hồ Chí Minh, hầu hết các khoản cho vay đối với DN sản xuất bình thường (không thuộc các lĩnh vực được ưu tiên như xuất khẩu, nông - ngư nghiệp,…) vẫn áp dụng mức LS cho vay phổ biến từ 21-21,5%/năm. Số lượng DN được vay vốn LS thấp đếm trên đầu ngón tay.
Trưởng phòng khách hàng DN của một chi nhánh NH thương mại nhận định, sẽ không có nhiều DN được vay với LS 17-19%/năm vì số vốn cho vay LS thấp mà NH công bố dù lên đến vài nghìn tỷ đồng, nhưng nếu cung ứng cho cả hệ thống thì cũng như muối bỏ biển.
Đơn cử, NH thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) công bố dành 2.000 tỷ đồng để cho DN hoạt động trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu và nông nghiệp vay với lãi suất từ 17- 19%/năm. Con số này chỉ chiếm khoảng 2,4% trên tổng số dư nợ hơn 80.500 tỉ đồng của Sacombank tính đến hết tháng 6/2011.
Với mức LS vay cao, trên 20%/năm, hầu hết các DN đều gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, chuẩn bị cho thị trường cuối năm. Bà Ngô Ngọc Hoa, Giám đốc Công ty TNHH thương mại - sản xuất Anh Khoa phân tích: "LS chưa được giảm, sức tiêu thụ hàng hóa chưa tăng. Từ đầu tháng 10 này, mức lương tối thiểu của công nhân tăng nên DN phải tính toán để tiết giảm các khoản chi phí khác. Nếu tình hình trên vẫn kéo dài thì các DNNVV sẽ khó trụ vững".
Theo ông Phan Văn Thiện, Phó tổng giám đốc Công ty Bánh kẹo Biên Hòa (Bibica), dù LS từ NH không chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu giá thành sản xuất nhưng nó có tác động dây chuyền đối với mọi DN. Vì vậy, nếu những ngày tới, LS cho vay giảm xuống 17 - 19%/năm và áp dụng được cho hầu hết các DN thì sức ép lên giá cả cuối năm sẽ dịu lại.
Phân loại DN để nới lỏng tín dụng
Theo kế hoạch, trong những tháng cuối năm, NH sẽ được phép cho vay thêm khoảng 238.000 tỷ đồng, giải ngân bình quân 47.600 tỷ đồng/tháng, gấp đôi tiến độ giải ngân 7 tháng đầu năm. Đó là cơ sở để NH tin tưởng lượng cung tiền vào đầu quý IV sẽ tăng, nhằm giúp các DN có vốn phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, với khoảng 100 tổ chức tín dụng đang hoạt động hiện nay, tính đến ngày 31/8/2011, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đã là 11,7%, trong khi Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cả năm là 15-18%. Điều này đồng nghĩa với việc dư địa tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm không còn nhiều.
Do đó, không phải DN nào cũng chạm được nguồn vốn có lãi suất "mơ ước" đó. Trong khi đó, phân tích số liệu của hơn 500 doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán thì thấy, hiện có hơn 130.000 tỷ đồng "chết" trong hàng tồn kho, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái và gần 20% so với đầu năm.
Vì vậy, DNNVV cần một cơ chế tín dụng linh động theo đặc thù từng lĩnh vực, ngành nghề. Theo đó, những lĩnh vực cung vượt cầu như dệt may, giấy nhăn và bao bì, đồ uống không cồn, phân bón và thức ăn gia súc, giày dép, sắt, thép…, thì dừng lại hoặc cho vay ngắn hạn nhằm giảm bớt gánh nặng hàng tồn kho. Ngược lại, những ngành sản xuất cung còn ít như: đường, gạch, ngói, gốm, sứ xây dựng không chịu lửa…, thì vẫn phải mở "van" tín dụng.
"Đối với các DN thuộc các ngành xuất khẩu mũi nhọn, trọng điểm như nông - lâm - thủy hải sản, cao su, dệt may… hoặc các DN xuất khẩu thuộc thế mạnh kinh tế địa phương, xuất khẩu vào thị trường mới..., các NH nên có hạn mức tín dụng dài hạn", ông Nguyễn Thái Học, Tổng giám đốc Công ty Chế biến xuất - nhập khẩu nông sản thực phẩm Đồng Nai (Donafoods) đề xuất.
Ông Đỗ Hoài Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam cho rằng, để giải quyết bài toán vốn không khó. Ví dụ, đối với ngành nông sản, chỉ cần phân bổ cho từng lĩnh vực số vốn cụ thể, rồi giao hạn mức vốn cho NH, NH sẽ tìm những DN tốt cho vay, như vậy vừa cung ứng đủ vốn cho DN mà vẫn bảo toàn được vốn.
Về phía các NH, việc thắt chặt tín dụng là tốt, nhưng không nên cào bằng. Đối với NH mạnh về vốn, quyết toán tài chính lành mạnh, tỷ lệ nợ xấu thấp, chủ yếu là cho vay trong khu vực sản xuất và có quy trình quản lý tốt, thì nên được phép tăng trưởng tín dụng cao hơn NH yếu kém.
Tổng hợp