Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Bản tin phân tích thị trường chè tháng 7/2018
03 | 08 | 2018
Bản tin phân tích thị trường chè tháng 7/2018

Xuất khẩu chè tháng 7/2018 ước đạt 10 nghìn tấn với giá trị đạt 18 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu chè 7 tháng đầu năm 2018 ước đạt 67 nghìn tấn tương đương 109 triệu USD, giảm 12,9% về lượng và 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường chính của chè Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2018 tiếp tục là Pakistan (với 29,9 triệu USD, chiếm 32,8%), Đài Loan (với 12,6 triệu USD, chiếm 13,8%), Nga (với 11,1 triệu USD, chiếm 12,1%), Trung Quốc (với 7,2 triệu USD, chiếm 7,9%), Indonesia (với 4,4 triệu USD, chiếm 4,8%) và Mỹ (với 3,8 triệu USD, chiếm 4,1%).

Điểm nhấn của xuất khẩu chè trong tháng 6/2018 là sự khởi sắc trở lại của thị trường Pakistan, thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam. Lượng xuất khẩu chè sang Pakistan tháng 6/2018 tăng tới 62,6% so với tháng 5/2018 và tăng 62.5% so với tháng 6/2017. Do đó, lũy kế xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 sang thị trường Pakistan, tăng đến 1,3 nghìn tấn (tương đương 10,9%) so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường có mức tăng trưởng mạnh tiếp theo trong 6 tháng đầu năm 2018 là Đài Loan tăng 510 tấn (tương đương 6,7%), Mỹ tăng 429 tấn (tương đương 14,9%), Trung Quốc tăng 412 tấn (tương đương 7,9%) và Malaisia tăng 350 tấn (tương đương 21,0%) so với cùng kỳ năm 2017. Đáng chú ý nhất là sự tăng trưởng mạnh tại thị trường mới nổi Philippin. Tổng xuất khẩu chè sang Philippin trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng đến 8,4 lần về lượng và 21,7 lần về giá trị, mặc dù Philippin không nằm trong top 10 thị trường chính của chè Việt Nam và xuất khẩu chè sang thị trường này chỉ đạt 376 tấn và 979 nghìn USD trong 6 tháng đầu năm 2018.

Nguyên nhân khiến lượng xuất khẩu chè các tháng đầu năm 2018 vẫn trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2017 là do sự tăng trưởng từ các thị trường trên không đủ bù đắp cho sự suy giảm liên tục tại các thị trường chính khác. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu chè sang Nga, thị trường lớn thứ 2 của xuất khẩu chè Việt Nam – chiếm 13% thị phần, giảm đến 1,23 nghìn tấn (tương đương 14,3%), Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất giảm 1,19 nghìn tấn (tương đương 57,0%), và Indonesia giảm 427 tấn (tương đương 8,7%) so với cùng kỳ năm 2017.

Giá chè xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2018 ước đạt 1.627 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017.

Tại thị trường trong nước, giá chè tháng 7/2018 tiếp tục giữ ở mức ổn định 105.000 đồng/kg đối với chè xanh búp khô, 200.000 đồng/kg chè cành chất lượng cao tại thị trường Thái Nguyên; và 9.000 đồng/kg đối với chè nguyên liệu (búp tươi) sản xuất chè xanh loại 1, 6.000 đồng/kg đối với chè nguyên liệu sản xuất chè đen tại thị trường Lâm Đồng. Giá chè trong nước được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức ổn định như hiện tại trong các tháng cuối năm 2018, do chưa có dấu hiệu nào cho thấy giá sẽ biến động mạnh.

Để thúc đẩy sự phát triển của ngành chè, bên cạnh việc nâng cao chất lượng chè thì ngành chè cần có biện pháp khuyến khích tăng tiêu dùng chè trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh lượng xuất khẩu đang có xu hướng giảm như hiện nay. Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm vào các phân khúc như chè hữu cơ, chè đặc sản để nâng cao giá trị gia tăng cho chè.

Lưu ý:

Để thúc đẩy sự phát triển của ngành chè, cần tăng cường nâng cao chất lượng ngành chè và có biện pháp khuyến khích tăng tiêu dùng chè trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh lượng xuất khẩu đang có xu hướng giảm như hiện nay. Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm vào các phân khúc như chè hữu cơ, chè đặc sản để nâng cao giá trị gia tăng cho chè. Lưu ý một số thị trường như Đài Loan, Hoa Kỳ còn có dư lượng một số thuốc BVTV vượt quá mức quy định cho phép

Theo IPSARD - MARD



Báo cáo phân tích thị trường