Bò phải đạt được trọng lượng từ 220kg trở lên
Ngoại hình:
Nên nhìn bằng mắt thường khi con bò đang ăn cỏ trên bãi chăn thả hoặc đang đi lại tự nhiên trên sân chuồng (không nhìn ở tư thế nằm). Bò nái tốt có thân hình tam giác (hình nêm) do thân sau phát triển hơn thân trước, đầu thanh nhẹ; mồm, mũi to, ngực sâu, hông rộng (dễ đẻ), vai, lưng không võng và rộng dần về phía xương chậu, mông phẳng rộng và dài. Bốn chân khoẻ, chân sau thấp hơn chân trước, bầu vú phát triển, các núm vú to, đều. Tĩnh mạch vú (gân sữa) to, dài, có nhiều nếp gấp khúc, bầu vú mềm mại không cứng.
Sản lượng sữa:
Yếu tố này tương đối chính xác khi bò đẻ, bà con trực tiếp vắt sữa, đong đếm xem khả năng cho sữa trong một ngày, một tháng và một chu kỳ (chất lượng sữa chưa có điều kiện kiểm tra), tuỳ theo giống bò, lứa đẻ mà cho lượng sữa khác nhau. Trong quá trình lựa chọn có thể có những bò không đẹp nhưng lại cho sản lượng sữa cao và ngược lại. Vì vậy một bò lai Sind ở lứa đẻ đầu cho từ 3-5kg sữa /ngày là chọn được. Thông thường bò đẻ lứa thứ nhất cho từ 210 - 240 ngày một chu kỳ, ở lứa thứ 2 từ 270 -300 ngày. . . Lứa thứ nhất có sản lượng sữa ít hơn lứa thứ 2-3... và giảm dần khi đẻ nhiều.
Khả năng sinh trưởng:
Bà con có thể đo vòng ngực (vòng ngực là chu vi mặt cắt đằng sau khớp bả vai) và đo dài thân chéo (là chiều dài từ mỏm xương gấu đến điểm tận cùng của xương chậu), tính theo công thức (vòng ngực) 2 x dài thân chéo x 90 cho ra trọng lượng, sai số 2 - 4kg.
Lý lịch (gia phả):
Cách chọn này chỉ phù hợp với các cơ sở chăn nuôi quốc doanh, các trang trại lớn... Người ta đã theo dõi các thế hệ từ đời ông, bà, bố, mẹ để đánh giá theo nguồn gốc của bò sữa hay cày kéo, thịt. Bà con theo dõi, ghi chép từng con bò qua các thế hệ lý lịch cộng với các tiêu chuẩn nêu trên, tất yếu sẽ chọn được bò nái tốt để phối tinh bò sữa, tạo ra bò hướng sữa.