Nguồn: Vietnambiz.vn
Chiều 11/11, Hiệp hội Cao su Việt Nam tổ chức hội thảo khởi động Dự án “Thúc đẩy sự tuân thủ hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp (VNTLAS) trong ngành cao su Việt Nam”.
Đây là dự án được thực hiện với sự hỗ trợ của Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO), Tổng cục Lâm nghiệp nhằm mục tiêu hỗ trợ các hộ tiểu điền và doanh nghiệp ngành cao su nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu VNTLAS trong chuỗi cung ứng qui mô nhỏ.
Dự án sẽ được thực hiện trong 12 tháng và triển khai thí điểm tại 2 tỉnh Bình Dương và Tây Ninh.
Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Ngọc Thuận, Chủ tịch Hiệp hội cao su Việt Nam (VRA) cho biết, với diện tích cao su trên 900.000 ha, gỗ cao su từ lâu đã trở thành nguồn cung nguyên liệu quan trọng cho ngành gỗ Việt Nam.
Mỗi năm diện tích này cung cấp cho thị trường với trữ lượng bình quân khoảng 2 – 10 triệu m3 gỗ tròn, trong đó, tỉ lệ đóng góp từ các hộ tiểu điền ngày càng tăng dần, đạt khoảng 0,5 – 6 triệu m3 gỗ tròn/năm, chiếm 30 – 60% từ năm 2021 – 2040.
Năm 2019, xuất khẩu gỗ nguyên liệu và sản phẩm gỗ cao su trị giá hơn 2,38 tỉ USD. Qua đó, ngành gỗ cao su đã đóng góp 22,4% trong tổng giá trị xuất khẩu của ngành gỗ Việt Nam. Hiện gỗ và sản phẩm gỗ cao su đã được xuất khẩu tới trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cũng theo ông Thuận, Việt Nam đã kí kết Hiệp định đối tác tự nguyện về Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) với EU và cam kết tất cả gỗ khai thác, nhập khẩu, vận chuyển, chế biến, mua bán và xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường EU đều được sản xuất hợp pháp.
Vào đầu tháng 9 vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 102/2020/NĐ-CP về việc quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS), có hiệu lực từ ngày 30/10/2020. Đây là qui định pháp lí bắt buộc áp dụng cho toàn bộ chuỗi cung ứng gỗ, trong đó có gỗ cao su được khai thác từ diện tích cao su trong nước.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Diện, Vụ trưởng Vụ Phát triển sản xuất Lâm nghiệp, Tổng cục Lâm nghiệp cho hay, EU là một trong 5 thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam bởi các sản phẩm chính dành cho người tiêu dùng EU là các sản phẩm gỗ nội và ngoại thất có giá trị cao.
Trong khi đó, mục tiêu của Hiệp định VPA/FLEGT là thiết lập khung pháp lí đảm bảo tất cả sản phẩm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam sang EU có nguồn gốc và được sản xuất hợp pháp.
“Hệ thống VNTLAS dựa trên qui định pháp luật áp dụng tại từng giai đoạn của chuỗi cung ứng gỗ, bao gồm khai thác, nhập khẩu, vận chuyển, chế biến, mua bán và xuất khẩu. Các qui định của hệ thống VNTLAS nhằm tăng cường trách nhiệm của các đối tượng trong việc đảm bảo tính hợp pháp của gỗ cũng như củng cố hệ thống kiểm soát chuỗi cung ứng gỗ và xác minh tính hợp pháp.
Do đó, việc thúc đẩy sự tuân thủ VNTLAS cũng như thực thi Hiệp định VPA/FLEGT không chỉ đảm bảo tất cả sản phẩm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam sang EU là hợp pháp mà còn giúp nâng cao tiêu chuẩn của ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam và thúc đẩy chuỗi cung ứng hợp pháp trong thương mại gỗ quốc tế”, ông Nguyễn Văn Diện nhấn mạnh.
Theo đó, bà Trần Thị Thúy Hoa, chuyên gia kĩ thuật Dự án VRA cho rằng, cần nâng cao năng lực tuân thủ VNTLAS cho ngành cao su và cần ưu tiên hỗ trợ cho các hộ tiểu điền – nguồn đóng góp quan trọng vào 30% - 60% sản lượng gỗ cao su của Việt Nam, làm động lực cho toàn chuỗi cung gỗ cao su Việt Nam có tính hợp pháp và bền vững.
Các hoạt động của Dự án sẽ được thực hiện trong 12 tháng với sự tham gia hỗ trợ của các chuyên gia cao su và lâm nghiệp có nhiều năm kinh nghiệm nhằm đảm bảo các kết quả đề ra, từ đánh giá tổng quan về ngành gỗ cao su Việt Nam đến xác định các thách thức, khó khăn trong việc tuân thủ Hệ thống VNTLAS và cuối cùng là xây dựng tài liệu hướng dẫn cho các hộ tiểu điền và doanh nghiệp sản xuất gỗ cao su.
Dự án sẽ nâng cao năng lực về VNTLAS cho VRA để hỗ trợ các bên liên quan của chuỗi cung ứng gỗ cao su trong việc thực hiện theo các tiêu chí của VNTLAS và các vấn đề liên quan đến Hiệp định VPA/FLEGT với EU.
Đồng thời hỗ trợ nghiên cứu các tác động của việc thực hiện VNTLAS tại nhiều cấp khác nhau ở Việt Nam và xây dựng các thông tin về ngành gỗ cao su thông qua các ấn phẩm để thông báo các bên liên quan trong nước và quốc tế về tiến trình thực hiện VNTLAS tại Việt Nam.