Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Thách thức trong điều hành và phối hợp các công cụ chính sách của NH Nhà nước trong bối cảnh hội nhập
13 | 06 | 2008
Kể từ cuối năm 2006, Việt nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Việc gia nhập WTO của Việt nam là mốc son quan trọng trên con đường phát triển của mình, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung, và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Có thể nói, đối với ngành ngân hàng, việc gia nhập và thực hiện các cam kết WTO mang lại nhiều thay đổi tích cực theo hướng tạo ra một thị trường mở cửa và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực dịch vụ ngân hàng tăng trưởng cả về quy mô và loại hình hoạt động.
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập WTO có thể đem lại nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn cho hệ thống ngân hàng nói chung, việc điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước nói riêng. Đối với ngành ngân hàng, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực và hiệu quả trong điều hành và thực thi chính sách tiền tệ; đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất tỷ giá trên cơ sở thị trường, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ; áp dụng các thông lệ tốt nhất trong quản trị ngân hàng, các chuẩn mực về thông tin báo cáo tài chính, các tiêu chí trong phòng ngừa rủi ro và an toàn hoạt động ngân hàng. Giữa ngân hàng Nhà nước và các NHTW các nước, các tổ chức tài chính đa phương sẽ có nhiều cơ hội phối hợp chính sách, trao đổi thông tin và hợp tác hành động, qua đó nâng cao sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàngViệt Nam và khả năng đối phó với những biến động của thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và nước ngoài.

Bên cạnh đó, việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy các ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Mở cửa thị trường tài chính trong nước buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Qua đó, khai thác và áp dụng hiệu quả hơn ưu thế của các loại hình ngân hàng nhằm mở rộng thị phần trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết song phương và đa phương sẽ là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính. Đồng thời, các công nghệ ngân hàng các kỹ năng quản lý tiên tiến được các ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết hợp tác kinh doanh. Sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng trong nước.

Thực hiện các cam kết trong WTO đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo đó có thể tạo ra một số tác động như (i) tăng luồng chu chuyển qua hệ thống ngân hàng (ii) thúc đẩy tiến trình cải tổ và nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ độc lập, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trên cơ sở thị trường, tạo ra lực đẩy cho sự phát triển của thị trường tiền tệ (iii) giúp các ngân hàng trong nước có khả năng huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.

Đồng thời, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với những vấn đề sẽ nảy sinh như hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay là chưa hoàn chỉnh, ch¬ưa đồng bộ và một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, và mức độ rủi ro của thị trường tài chính nội địa sẽ tăng lên do các tác động từ thị tr¬ường tài chính khu vực và thế giới.

Việc gia nhập WTO cũng tạo ra thách thức không nhỏ cho NHNN như phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và đặc biệt là việc điều hành và phối hợp các công cụ chính sách để thiết lập bình ổn môi trường kinh tế vĩ mỗ, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Hiện nay, hệ thống pháp luật ngân hàng hiện hành còn thiếu, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; còn có phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng (TCTD), giữa các nhóm ngân hàng giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Những điều đó đặt ra thách thức sửa đổi nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Mặt khác, hệ thống pháp luật hiện hành còn chứa đựng nhiều hạn chế mang tính định lượng áp dụng đối với các TCTD trong nước và có những điểm chưa phù hợp với quy định của GATS và Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.

Việc gia nhập WTO sẽ làm tăng các giao dịch vốn, các luồng chu chuyển vốn sẽ rất phức tạp làm tăng khả năng rủi ro hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ mặc dù có nhiều đổi mới nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, năng lực điều hành chính sách tiền tệ cũng như giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN vẫn còn hạn chế, sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong quản lý vĩ mô chưa được chặt chẽ làm cho công tác quản lý kém hiệu quả. Gần đây, với định hướng mở cửa dần các giao dịch vốn khi gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam bên cạnh mặt tích cực là có thêm nguồn vốn đầu tư những mặt khác cũng tạo ra áp lực lạm phát. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong thời gian gần đây là hết sức cố gắng và đúng hướng nhưng đôi khi vẫn bộc lộ rõ sự lúng túng trong điều hành và trong phối hợp các công cụ chính sách.

Cụ thể, trong cơ cấu luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt nam, do không có chính sách hạn chế các luồng vốn ngắn hạn, tỷ trọng vốn ngắn hạn gia tăng mạnh, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp, hiện đã lên đến trên 40% tổng số luồng vốn nước ngoài. Việc gia tăng luồng vốn ngắn hạn tạo nên rủi ro đảo chiều lớn và làm cho nền kinh tế trở nên dễ tổn thương nếu có sự biến động trên thị trường trong nước và quốc tế. Do sự gia tăng mạnh mẽ của cả dòng vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và luồng tiền kiều hối, trong năm 2007 tạo nên thặng dư lớn trong cán cân thanh toán quốc tế tổng thể, Ngân hàng Nhà nước đã mua một lượng ngoại tệ ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối để vừa đảm bảo khả năng can thiệp trong tương lai vừa để duy trì khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tránh sự lên giá của đồng Việt nam. Tuy nhiên, việc mua ngoại tệ cho dự trữ buộc NHNN phải bơm ra một số tiền đồng vào lưu thông gây áp lực cho lạm phát.

Để kiểm soát lạm phát, NHNN đã phải thông qua hoạt động của thị trường mở để hút bớt số tiền đồng đã bơm ra dưới hình thức bán tín phiếu của NHNN. Tuy nhiên, việc hút tiền về từ lưu thông vào giai đoạn cuối năm 2007, đầu năm 2008 trong bối cảnh nhu cầu tiền đồng của các NHTM là lớn và với trình độ quản lý rủi ro còn hạn chế của các NHTM đã góp phần tạo nên sự thiếu thanh khoản tiền đồng của một số NHTM, đã đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cao lên mức chưa từng có. Các NHTM đồng loạt tăng lãi suất huy động và cho vay tạo nên cuộc cạnh tranh lãi suất không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng. Với diễn biến lạm phát tăng nhanh vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 và với một loạt các giải pháp kiểm soát lạm phát thực hiện đồng loạt của NHNN, thị trường chứng khoán có nhiều biến động nóng lạnh thất thường và hiện đang ở mức sụt giảm nghiêm trọng. Kết quả là, đầu năm 2008, NHNN phải ngừng chiến dịch buộc các ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc trong một thời gian. NHNN phải xác lập trần huy động lãi suất tiền đồng và ngoại tệ cũng như trần qui mô tín dụng cho các NHTM. Nhu cầu mua, bán ngoại tệ của các NHTM cũng biến động khôn lường tạo nên khó khăn cho việc điều hành, can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối. Trong tháng 1 và tháng 2 các NHTM còn đua nhau bán ngoại tệ cho NHNN thì cuối tháng 3 đầu tháng 4 tình hình đã đảo ngược, nhiều NHTM lại có nhu cầu mua ngoại tệ từ NHNN sau khi NHNN nới rộng biên độ tỷ giá cho phép sự lên giá của đồng Việt nam.

Nguyên nhân gốc dễ của sự biến động đa chiều trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối thời gian qua là sự đối mặt với ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi” của một nước mở của nền kinh tế khá mạnh mẽ. Theo lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, một nước mở cửa cán cân vốn không thể vừa đạt được mục tiêu ổn định giá cả vừa đạt được mục tiêu ổn định tỷ giá. Việc tăng lãi suất hạn chế tiền cung ứng trong lưu thông để kiểm soát lạm phát sẽ càng làm tăng sức hút dòng vốn nước ngoài đổ vào và càng làm tăng sức ép lên giá của đồng nội tệ, sẽ khó cho phép nước này ổn định tỷ giá. Điều này gây ảnh hưởng đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu và làm gia tăng mức thâm hụt cán cân vãng lai. Nếu duy trì ổn định tỷ gía, NHTW phải mua ngoại tệ vào và phải bơm tiền ra lưu thông thì lại gây nên áp lực lạm phát. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hang đầu thế giới, ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi” này càng nghiêm trọng đối với các nước mới nổi có thị trường tiền tệ và tài chính còn chưa thực sự phát triển. Một số nước như Thái lan và Malaixia đã phải lựa chọn việc kiểm soát luồng vốn để có thể kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá khi luồng vốn nước ngoài đổ vào trong nước ở mức cao trong thời kỳ khủng hoảng.

Với Việt Nam, chính sách quản lý cán cân vốn hiện thời là khá thông thoáng. FDI được khuyến khích tối đa và còn có sự cạnh tranh giữa các địa phương, tạo thảm đỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Luồng vốn huy động của Chính phủ theo hình thức ODA không có hạn chế. Các luồng vốn này là trung hạn và tương đối ổn định ty nhiên, nếu hiệu quả đầu tư không cao thì việc huy động vốn quá mức hấp thụ của nền kinh tế cũng không tạo nên sự tăng trưởng bền vững. Với dòng vốn ngắn hạn, Việt Nam cho phép nhà đầu tư nước ngoài, kể cả cá nhân tham gia thị trường chứng khoán mà đây là luồng vốn rất dễ đảo chiều gây ảnh hưởng kinh tế vĩ mô. Do vậy, dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt nam tăng mạnh trong năm 2007 và dự kiến giảm đáng kể trong năm 2008. Điều này sẽ gây khó khăn cho NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá. Kinh nghiệm của Trung quốc cho thấy họ mở cửa cán cân rất chọn lọc có lợi cho tăng trưởng bền vững như chính sách khuyến khích FDI vào các lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, tạo ra các rào cản kỹ thuật với các lĩnh vực không khuyến khích đầu tư như đưa ra các yêu cầu cao về môi trường hay không cho phép cá nhân nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán, chỉ cho phép các tổ chức có đủ điều kiện đầu tư dài hạn vào thị trường chứng khoán. Một số nước khác thì đánh thuế vào các luồng vốn nước ngoài đầu tư ngắn hạn hay yêu cầu ký quĩ trước khy đầu tư với tỷ lệ lớn để hạn chế luồng vốn nước ngoài đổ vào ào ạt.

Với chính sách quản lý luồng vốn khá thông thoáng nêu trên của Việt Nam, để kiểm soát lạm phát- mục tiêu số 1 hiện nay theo chỉ đạo của Chính phủ thì việc phối hợp điều hành giữa NHNN và các bộ ngành càng trở nên quan trọng hơn. Nếu NHNN vẫn tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt và ổn định tỷ giá thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì khả năng xuất khẩu nhưng Bộ Tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư vẫn tiếp tục huy động luồng vốn nước ngoài và sử dụng không hiệu quả thì luồng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào và gây sức ép mua ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước và kéo theo áp lực lạm phát. Trường hợp linh hoạt hơn cơ chế tỷ giá thông qua việc mở biên độ để khống chế lạm phát thì gây ảnh hưởng đến xuất khẩu và cán cân vãng lai hiện đang thâm hụt ở mức báo động lại càng thâm hụt hơn và có nhiều khả năng tạo nên khủng hoảng trong tương lai. Mặt khác theo nghiên cứu của IMF thì tác động của việc cho phép lên gia tiền đồng để kiểm soát lạm phát là không lớn, chỉ ở mức nếu tăng 1% tỷ giá thực (REER) thì làm giảm tỷ lệ lạm phát đi 0,12%. Mặt khác, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thì hàng dầu thô, dệt may và gạo chiếm chủ yếu (trên 40%) mà giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế dựa vào chất lượng sản phẩm và hàng nhập khẩu cũng chủ yếu là nguyên nhiên vật liệu nên sẽ phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh hơn là tỷ giá. Do vậy sử dụng đơn thuần công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát là chưa đủ.

Đối với công cụ lãi suất, các nước không bị tình trạng đô la hoá và có mặt bằng lãi suất thấp có thể sử dụng để kiếm soát lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thả tỷ giá tương đối tự do. Tuy nhiên, với Việt Nam, với mặt bằng lãi suất cao trong khu vực và trên thế giới và với bối cảnh khá tự do hoá các giao dịch vốn thì biện pháp tăng lãi suất để thắt chặt tín dụng sẽ khó phát huy tác dụng. Cụ thể, khi lãi suất lên cao, do chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước và với bối cảnh lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm càng làm tăng luồng vốn đổ vào Việt Nam. Tín dụng bằng USD tăng nhanh và có xu hướng nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi USD để mua trái phiếu VND của các NHTM. Khi đó, áp lực lạm phát không giảm mà còn tăng.

Do vậy, có thể cho rằng việc NHNN áp dụng riêng rẽ các biện pháp lãi suất hay tỷ giá mà không có phối hợp của việc quản lý các luồng vốn của các bộ ngành, đặc biệt là luồng vốn ngắn hạn thì mục tiêu kiểm soát lạm phát khó có thể đạt được. Kinh nghiệm mở cửa có chọn lọc các luồng vốn có lợi cho phát triển bền vững và phù hợp với khả năng sử dụng các công cụ lãi suất, thị trường mở và tỷ giá để kiểm soát lạm phát của Trung quốc là một kinh nghiệm có giá trị.

 



Theo Vietsock
Báo cáo phân tích thị trường