Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Việt Nam-thị trường tiềm năng cho bảo hiểm nông nghiệp?
12 | 01 | 2009
Nông nghiệp Việt Nam thường xuyên phải hứng chịu những trận thiên tai lớn, cũng như những rủi ro đến từ dịch bệnh gia súc, gia cầm và cây trồng… Bởi vậy, nông nghiệp Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng đối với hoạt động bảo hiểm nông nghiệp (BHNN).

Khả năng ứng phó với rủi ro còn thấp

Theo nhận định của các chuyên gia nghiên cứu về hoạt động BHNN, nền nông nghiệp Việt Nam là một nền nông nghiệp đầy rủi ro. Chỉ tính riêng trong năm 2008, có 10 cơn bão, 6 trận áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam đã gây thiệt hại trên 13.000 tỷ đồng, chưa kể những đợt dịch bệnh trên vật nuôi, cây trồng…

Thực trạng đó đã khiến đời sống của người nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong khi đó, ngoài những hỗ trợ hạn chế từ ngân sách nhà nước, những nguồn vốn tín dụng nhỏ, người nông không biết trông chờ vào đâu. Qua đó cho thấy, khả năng ứng phó với rủi ro của ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua chưa hiệu quả.

Theo nhận xét của chuyên gia Công ty bảo hiểm Global AgRisk (Mỹ), đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam là sở hữu khu đất nhỏ, sản xuất chủ yếu dựa vào sức lao động… Do đó, tất yếu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam phải chịu nhiều rủi ro: từ thời tiết bất lợi, dịch bệnh, chi phí đầu vào không ổn định, đến những biến động của thị trường và chính sách bảo hộ còn thiếu và yếu…

Trong khi thực tế, khả năng ứng phó với các loại rủi ro này của nông nghiệp Việt Nam là rất khó khăn. Nhất là đối với những rủi ro như thiên tai, thời tiết, hay biến động của thị trường thường tác động đến một bộ phận không nhỏ người nông dân ở cùng một địa phương, cùng một vùng sản xuất. Những rủi ro từ dịch bệnh, thiên tai gây thua lỗ sản xuất sẽ khiến nông dân không mạo hiểm đầu tư vào những mô hình, công nghệ sản xuất hiện đại cho hiệu quả kinh tế cao, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Do vậy, họ vẫn tìm đến với những cây trồng, vật nuôi truyền thống cho dù có giá trị lợi nhuận thấp.

Cùng với những rủi ro khách quan từ thời tiết, dịch bệnh, đôi khi những chính sách bảo hiểm, tín dụng của chính phủ nhằm giảm nhẹ rủi ro cho nông dân lại trở thành một sai lầm nếu rủi ro đó không được định giá đúng. Thực tế tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã từng xảy ra tình trạng này…

Theo các chuyên gia, để giảm bớt những rủi ro như vậy cần gia tăng khả năng tiếp cận các giải pháp về dịch vụ tài chính, như: tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm… từ đó có thể cải thiện được năng lực sản xuất của hộ gia đình. Những khoản tiền tiết kiệm, tín dụng được coi là nguồn lực hỗ trợ hiệu quả trong những thiệt hại nhỏ và trung bình, trong khi bảo hiểm là phương án tối ưu cho những thiệt hại nghiêm trọng. Vấn đề là cần phải đánh giá, định giá được rủi ro để đưa ra được những biện pháp phù hợp. Trước hết, cần đánh giá những tác động kinh tế trực tiếp và gián tiếp của những rủi ro, thời điểm xảy ra; đối tượng chịu thiệt hại; ai sẽ chi trả cho thiệt hại…

Cơ hội để phát triển BHNN tại Việt Nam

Tại Việt Nam, nhiều năm qua Ngân hàng Nông nghiệp& PTNT Việt Nam (Agribank) được coi là ngân hàng chủ lực trong việc cho hàng triệu hộ nông dân vay vốn… Tuy nhiên, việc cho vay vốn không phân biệt những rủi ro mà người nông dân có thể gặp phải, nên khi gặp thiên tai, thảm họa, Agribank thường phải khoanh nợ, xóa nợ cho những hộ nông dân bị thiệt hại quá nợ.

Thực tế Agribank đã hoạt động như một nhà BHNN, nhưng chi phí chịu rủi ro lại lấy từ nguồn tiền của chính phủ thay vì do nông dân đóng. Do đó, không tạo ra được động lực để các hộ dân chủ động ứng xử và có kế hoạch đối với những rủi ro mà họ có thể gặp phải trong tương lai. Tuy nhiên, với việc chuyển dần sang mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại thời gian gần đây, Agribank đã bắt đầu giảm những khoản vay như vậy. Điều đó có nghĩa trong thời gian tới người nông dân sẽ phải gánh chịu những chi phí rủi ro nhiều hơn.

Đây được coi là cơ hội để phát triển BHNN ở Việt Nam cho dù có rất nhiều thách thức do quy mô sản xuất quá nhỏ, thiếu cơ sở dữ liệu đánh giá các rủi ro, thiếu quy định pháp lý, kiến thức về BHNN cho nông dân.

Giảm chi phí để hướng tới hộ nghèo

Có một thực tế, những rủi ro do thời tiết bất thường thường xảy ra với tần suất vài ba năm một lần, nên quan chức nhiều địa phương, cũng như người nông dân không quan tâm đến việc tham gia mua bảo hiểm nông nghiệp.

Phân tích các phân đoạn thị trường BHNN ở Việt Nam, chuyên gia Công ty bảo hiểm Global AgRisk cho rằng, có 3 đối tượng chính: hộ nông dân nghèo, hộ nông dân nhỏ lẻ, hộ sản xuất lớn. Các đối tượng này có những đòi hỏi khác nhau về nhu cầu BHNN.

Hiện các nước đang phát triển thường áp dụng loại hình bảo hiểm cây trồng dựa trên sản lượng thực tế, cũng như những thiệt hại cụ thể trong những rủi ro mang tính thảm họa, hay có tính đặc thù của từng địa phương.

Tuy nhiên hạn chế của loại hình trên là chỉ những hộ có khả năng chịu rủi ro cao nhất mới mua; mặt khác còn thiếu cơ sở dữ liệu để định giá đúng rủi ro, chi phí quản lý và kiểm soát cao… Thực tế những năm 90 của thế kỷ trước, Tập đoàn Bảo Việt đã thực hiện việc bảo hiểm cây trồng đa hiểm họa và đã phải tạm dừng do chi phí quá lớn.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chính phủ thường hỗ trợ những khoản tiền lớn để giúp nông dân đóng phí bảo hiểm, từ đó nông dân không phải đương đầu với rủi ro lớn và che đậy những vấn đề do lựa chọn sai lầm về cây trồng của nông dân, cũng như phương thức quản lý sản xuất không phù hợp. Tuy nhiên, nếu không có sự hỗ trợ của chính phủ thì nông dân sẽ phải đóng mức phí rất cao.

Thống kê của một số nước như Nhật, Mỹ, Brazil… cho thấy, tổng chi phí bồi thường và quản lý thường cao gấp 2-5 lần tiền phí bảo hiểm, trong khi về dài hạn phí bảo hiểm phải lớn hơn tổng số tiền bồi thường và chi phí quản lý. Đây chính là vấn đề mà các công ty bảo hiểm gặp phải khi phát triển những sản phẩm BHNN mang tính đặc thù của Việt Nam.

Ủy viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia Đào Văn Hùng cho rằng, loại hình BHNN ở cấp độ vi mô có rất nhiều tiềm năng. Việc phát triển loại hình bảo hiểm vi mô giúp tiết kiệm tối đa chi phí để quản lý, giám sát, cùng với sự linh hoạt trong thu phí, bồi thường thiệt hại ở mức độ nhỏ cho các hộ nông dân.

Qua khảo sát tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, nhiều hộ nông dân sẵn sàng mua BHNN để đảm bảo sự an toàn cho hoạt động sản xuất. Những khảo sát ban đầu cho thấy, loại hình BHNN vi mô có rất nhiều khách hàng tiềm năng, nhưng cần có những khung pháp lý phù hợp để có thể triển khai được những sản phẩm cụ thể, như: bảo hiểm chỉ số hạn hán, lũ lụt, sản lượng thu hoạch…

Ngoài ra, mỗi hợp đồng bảo hiểm cần phải căn cứ theo quá trình sản xuất của từng hộ gia đình, những rủi ro quá lớn cần phải được kiểm soát bằng sự giám sát và sử dụng khấu trừ/hợp tác bảo hiểm. Kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam là thay vì tài trợ phí bảo hiểm cho nông dân, có thể sử dụng đầu tư vào cải thiện cơ sở hạ tầng rủi ro, như: luật, cơ sở dữ liệu, tăng năng lực cho các công ty bảo hiểm, nhận thức cộng đồng…



Nguồn: Hànộimới Online
Báo cáo phân tích thị trường