Thị trường cà phê ở Ma-rốc còn chưa mang tính cơ cấu nhưng cạnh tranh quyết liệt. Việc tiêu thụ cà phê không đóng bao vẫn chiếm ưu thế do giá rẻ và không phải đáp ứng bất kỳ một chuẩn mực vệ sinh và chất lượng nào. Tuy nhiên, thị trường cà phê đóng gói ngày càng trở nên cạnh tranh hơn và thu hút nhiều nhà rang xay trong và ngoài nước.
Cà phê nhập khẩu vào Ma-rốc phải tuân thủ việc kiểm tra chất lượng và các quy định chặt chẽ, do một cơ quan chống gian lận và một phòng thí nghiệm đảm trách. Đây là rào cản đầu tiên khi hàng bắt đầu vào lãnh thổ quốc gia. Những người có trách nhiệm sẽ phân tích mẫu lấy từ các bao khác nhau để kiểm tra xem có đáp ứng được các điều kiện hay không. Về mặt pháp lý, trong mẫu 300 gr, trọng lượng nhân hỏng không được vượt quá 10 %. Nếu không, hàng sẽ bị ách lại tại cảng.
Bảng 1.Quy định của Hải quan Ma-rốc về thuế nhập khẩu cà phê
Tên nước | Thuế nhập khẩu | VAT | Thuế ngoại ngạch | Thuế suất gộp |
Cà phê chưa rang xay | 10% | 14% | 0,25% | 25,65% |
Cà phê rang xay | 50% | 14% | 0,25% | 71,25% |
Bảng 2.Các nước xuất khẩu cà phê chính vào thị trường Ma-rốc năm 2005
Tên nước | Trọng lượng (nghìn tấn) |
1. Indonesia | 6,8 |
2. Việt Nam | 6,3 |
3. Ghi-nê | 4,4 |
4. Côte d’Ivoire | 3,6 |
5. U-gan-đa | 2,3 |
6. Tô-gô | 1,7 |
7. Công-gô | 1,1 |
Nguồn: Cục Thống kê Ma-rốc
Theo số liệu của Hải quan Ma-rốc, trong năm 2006, nước ta đã xuất khẩu vào thị trường này 7961 tấn cà phê (loại chưa rang xay, chưa khử caphêin), đạt doanh thu 9,9 triệu USD. Còn theo số liệu của Hải quan Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm 2007, Việt Nam đã bán cho Ma-rốc 5139 tấn cà phê với tổng giá trị 7,6 triệu USD (trên tổng số 14,5 triệu USD xuất khẩu).
Cà phê là sản phẩm xuất khẩu đứng đầu trong cơ cấu xuất khẩu của ta vào thị trường Ma-rốc.
Danh sách các doanh nghiệp của Ma-rốc hoặc liên doanh với Ma-rốc nhập khẩu cà phê xem tại file đính kèm dưới đây.