Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Sáu đột phá lớn về lý luận của cải cách kinh tế ở Trung Quốc
02 | 06 | 2008
Hai mươi năm qua, mỗi tiến triển của cải cách thể chế Trung Quốc không thể không dựa vào những đột phá quan trọng của lý luận kinh tế. Có thể nói rằng, nếu không giải phóng tư tưởng, không dẹp bỏ những trở ngại về nhận thức, thì sẽ không có được những thành quả phong phú của cuộc cải cách kinh tế hôm nay.
1. Lý luận về kinh tế thị trường XHCN

- Đã đột phá vào những quan điểm có tính chất chế độ và thuộc tính giai cấp của kinh tế thị trường, xây dựng nên lý luận kinh tế thị trường vừa có thể phục vụ cho CNTB lại vừa có thể phục vụ cho CNXH.

- Đã đột phá vào lý luận truyền thống cho rằng chế độ công hữu của CNXH không thể kết hợp với kinh tế thị trường; xây dựng nên lý luận chế độ công hữu có thể kết hợp được với kinh tế thị trường.

- Đã đột phá vào quan niệm cho rằng chế độ công hữu của CNXH phải thuần nhất, xây dựng nên lý luận coi công hữu là chủ thể, nhiều loại sở hữu cùng phát triển.

- Đã đột phá vào lý luận coi phân phối theo lao động là phương thức duy nhất; xây dựng nên lý luận coi phân phối theo lao động là chủ thể, nhiều loại phương thức phân phối đồng thời cùng tồn tại.

2. Lý luận về giai đoạn đầu của CNXH và lý luận mang đặc sắc Trung Quốc

- Đã đột phá vào quan niệm cho rằng CNXH chỉ có tính chung, tính phổ biến, xây dựng nên lý luận các nước XHCN đều có tính đặc thù, có thể đi con đường đặc sắc của mình.

- Đã đột phá vào quan niệm cho rằng CNXH chỉ có học tập Liên Xô, chỉ có thể sao chép, chuyển dịch theo, xây dựng nên lý luận CNXH phải học tập, tiếp thu mọi thành quả văn minh của loài người để sử dụng cho mình.

- Đã đột phá vào quan niệm "quá độ nghèo", "quá độ nhanh", xây dựng nên lý luận CNXH của Trung Quốc vẫn nằm trong giai đoạn đầu của CNXH, cải cách và phát triển phải xuất phát từ tình hình của giai đoạn đầu.

3. Lý luận về chế độ sở hữu và hình thức thực hiện của chế độ sở hữu.

- Đã phá bỏ quan niệm truyền thống sợ "tư nhân", sợ "tư bản chủ nghĩa", hạn chế sự phát triển của kinh tế phi công hữu, xây dựng nên lý luận có thể mạnh dạn lợi dụng mọi hình thức sở hữu phù hợp với điều "3 có lợi", mọi phương thức kinh doanh và hình thức tổ chức phản ánh quy luật của nền sản xuất xã hội hoá.

- Đã phá bỏ quan niệm coi kinh tế quốc hữu là hình thức cao cấp của chế độ công hữu, kinh tế tập thể là hình thức thấp nhất của chế độ công hữu, hình thức thấp nhất phải quá độ sang hình thức cao cấp; xây dựng nên lý luận cho rằng kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể không phân biệt cao hay thấp, phải cùng phát triển trong cạnh tranh bình đẳng.

- Đã phá bỏ quan niệm cho rằng kinh tế quốc hữu càng lớn càng công hữu càng tốt, là đặc trưng của nền kinh tế XHCN; xây dựng nên lý luận cho rằng vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu chủ yếu biểu hiện ở sức khống chế và sức ảnh hưởng, tiến hành điều chỉnh đối với bố cục và kết cấu sở hữu của kinh tế quốc hữu.

- Đã phá bỏ quan niệm cho rằng kinh tế phi công hữu là thuộc tính xã hội của kinh tế TBCN, là sự bổ sung có ích của chế độ công hữu XHCN; xây dựng nên lý luận kinh tế phi công hữu là bộ phận tổ thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN, lấy công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của CNXH.

- Đã phá bỏ quan niệm cho rằng chế độ sở hữu và hình thức thực hiện của nó không tách rời nhau, đồng nhất hoá hình thức thực hiện chế độ công hữu; xây dựng nên lý luận chế độ sở hữu và hình thức thực hiện của nó là có sự khác nhau, cần tìm tòi hình thức thực hiện đa dạng hoá của chế độ công hữu.

4. Lý luận về chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần

- Cuộc tranh luận về chế độ cổ phần là tư hữu hay công hữu, đã làm rõ chế độ cổ phần vừa không mang họ "công" (công hữu) cũng không mang họ "tư" (tư hữu), mà là kinh tế sở hữu hỗn hợp có thể dung hợp "công" và "tư" thành một thể. Nếu là quốc hữu và tập thể khống chế cổ phần thì sẽ mang tính chất công hữu; nếu là tư doanh và thương nhân nước ngoài khống chế cổ phần thì mang tính chất tư hữu.

- Cuộc tranh luận về chế độ cổ phần là kinh tế TBCN hay kinh tế XHCN, đã làm rõ nó vừa không phải họ "tư" (TBCN) cũng không phải họ "Xã" (XHCN), mà là một hình thức tổ chức vốn của chế độ xí nghiệp hiện đại, là hình thức thực hiện có hiệu quả phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường của kinh tế quốc hữu.

- Cuộc tranh luận về chế độ hợp tác cổ phần là kinh tế gì, đã làm rõ kinh tế hợp tác cổ phần vừa không phải là chế độ cổ phần, cũng không phải là chế độ hợp tác, mà là một hình thức thực hiện của kinh tế công hữu loại hình mới mang một số đặc điểm của cả chế độ cổ phần lẫn chế độ hợp tác, là sản phẩm mới mang đặc sắc Trung Quốc, là kinh tế tập thể của sự liên hợp lao động và liên hợp vốn, là một hình thức có hiệu quả của việc cải cách chế độ đối với các xí nghiệp nhỏ quốc hữu.

5. Lý luận về phân phối theo lao động và phân phối theo các yếu tố sản xuất

- Đã đột phá vào quan điểm truyền thống cho rằng phân phối theo lao động là đặc điểm của CNXH, phân phối theo vốn là đặc điểm của CNTB. Đã xác định lý luận kết hợp với nhau giữa phân phối theo lao động và phân phối theo yếu tố sản xuất, kiên trì ưu tiên hiệu quả, chú ý công bằng, có lợi cho việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững xã hội ổn định.

- Đã đột phá vào quan niệm bình quân chủ nghĩa, xây dựng nên lý luận cho phép và khuyến khích một số người, một số vùng thông qua lao động thành thực, kinh doanh hợp pháp được giàu lên trước.

- Đã đột phá vào quan niệm cho rằng phân phối theo vốn, kỹ thuật thuộc về thu nhập phi pháp, làm rõ lý luận đồng thời quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, thực hiện làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, cần cho phép và khuyến khích việc phân phối lợi ích thu được theo sự tham gia của các yếu tố sản xuất như vốn, kỹ thuật.

6. Lý luận về công nhân viên chức nghỉ việc (hạ cương) và tái việc làm

- Đột phá vào quan niệm truyền thống cho rằng thất nghiệp là đặc trưng của CNTB, việc làm đầy đủ là đặc trưng của CNXH; xây dựng nên lý luận cho rằng trong các nước XHCN theo đà đi sâu cải cách doanh nghiệp, tiến bộ kỹ thuật và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nhân viên lưu động và công nhân viên chức (CNVC) nghỉ việc là điều không thể tránh khỏi.

- Làm sáng tỏ quan điểm cho rằng nhân viên lưu động và CNVC nghỉ việc là căn bệnh xuất hiện khi cải cách doanh nghiệp; xây dựng nên lý luận cho rằng nhân viên lưu động và CNVC nghỉ việc sẽ đưa lại những khó khăn tạm thời ch một bộ phận CNVC, nhưng căn bản mà nói, điều đó có lợi cho cải cách doanh nghiệp, tiến bộ kỹ thuật, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế, phù hợp với lợi ích lâu dài của giai cấp công nhân.

Đã đột phá vào quan niệm cho rằng CNVC doanh nghiệp Nhà nước nghỉ việc, thuyên chuyển cần phải do Nhà nước bao cấp, xây dựng quan niệm mới cho rằng, Đảng và chính quyền các cấp phải thực hiện những biện pháp tích cực, dựa vào sức mạnh mọi mặt của xã hội, quan tâm và sắp xếp đời sống phải nghỉ việc, làm tốt việc đào tạo nghề, đẩy mạnh các công trình tái tạo việc làm, đồng thời quảng đại CNVC cũng phải thay đổi quan niệm về việc làm, cố gắng thích ứng với yêu cầu của cải cách và phát triển.

Những đột phá lý luận nêu trên, được tập trung phản ánh trong Đại hội XV ĐCS Trung Quốc, là sự tổng kết lý luận của thực tiễn cải cách 20 năm qua, là sự phát triển lý luận của Đại hội XIV và Hội nghị trung ương 3 khoá XIV, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc "3 điều có lợi" của lý luận Đặng Tiểu Bình, đã cung cấp cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề khó khăn trong giai đoạn công kiên của cải cách ở Trung Quốc.

Xem tin gốc tại:
http://www.vietnamchina.gov.vn/cvweb/vcc/info/Article.jsp?a_no=112154&col_no=554



Báo cáo phân tích thị trường